Docly

Bế quan tỏa cảng là gì? Bản chất của chính sách này là gì?

Khi nghiên cứu về những triều đại phong kiến cận đại như nhà Nguyễn hay nhà Thanh, chúng ta có thể thấy 2 triều đại này đều thi hành chính sách “Bế quan tỏa cảng”. Vậy Bế quan tỏa cảng là gì?” Hãy cùng Trang Tài Liệu tìm hiểu trong bài viết sau đây nhé. Dựa vào những khái niệm này có thể giúp các bẹn hiểu rõ hơn về bối cảnh lịch sử.

Bế quan tỏa cảng là gì?

Bế quan tỏa cảng là chính sách đề cập đến việc quốc gia tiến hành chính sách cấm không tiếp xúc với thế giới bên ngoài, là một chủ nghĩa biệt lập điển hình. Chính sách này hạn chế nghiêm ngặt các hoạt động giao lưu kinh tế, văn hóa, khoa học và các hoạt động giao lưu khác của nước ngoài. Trung Quốc thực hiện chính sách “bế quan tỏa cảng” vào đầu thời nhà Thanh bắt nguồn từ việc các doanh nhân Anh quốc cố gắng bán hàng hóa của họ (đặc biệt là thuốc phiện) cho Trung Quốc vào thời điểm đó. 

“Bế quan toả cảng” được phản ánh trong nhiều chính sách hạn chế thương mại ở nước ngoài, trong đó nghiêm trọng nhất là lệnh cấm đường biển, thứ hai là thông quan và thứ ba là các chính sách hạn chế khác. Đánh giá từ các sắc lệnh chính thức của nhà Minh tại Trung Quốc, cấm biển là quốc sách cơ bản của nhà Minh. Lệnh cấm biển trong thời Gia Kinh chỉ thực sự được thực hiện trong hơn mười năm. Trong thời kỳ này người Bồ Đào Nha vẫn được phép buôn bán qua Ma Cao. Vào năm Long Khánh đầu tiên (1567), không những không có hạn chế đối với các cảng ở xa mà còn có rất nhiều tư nhân ra vào trong các cảng bị đóng cửa. Kể từ đó, các cảng khác cũng lần lượt được mở ra, thương mại gián tiếp hoàn toàn không thể bị cấm, thương mại trực tiếp với Nhật Bản cũng khá sôi động, thực tế là đã mở hết đường biển.

Chính phủ nhà Thanh ra lệnh cấm quan chức và dân thường ra khơi nếu không được phép. Nếu họ bán hàng cấm cho nước khác hay hợp tác với kẻ thù hoặc chế tạo tàu để bán cho nước khác sẽ bị giao cho Bộ Tư pháp và bị trừng phạt theo pháp luật. Phong trào bế quan tỏa cảng của nhà Thanh bắt đầu vào năm Thuận Chí thứ 12 (1655) và kết thúc vào năm Khang Hy thứ 23 (1684). Trên thực tế, chính quyền nhà Thanh đã có một thời gian cấm hoàn toàn đường biển. 

Bản chất của bế quan tỏa cảng

Bế quan tỏa cảng là một thuật ngữ được sử dụng trong lĩnh vực kinh tế để chỉ việc mở cửa hoặc tiếp nhận hàng hóa vào hoặc ra khỏi cảng mà không có các hạn chế hay rào cản. Bản chất của bế quan tỏa cảng là tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động giao thương và thương mại thông qua việc loại bỏ các quy định hạn chế và tạo ra môi trường kinh doanh tự do.

Bế quan tỏa cảng mang lại nhiều lợi ích kinh tế như tăng cường sự thông suốt và hiệu quả của chuỗi cung ứng hàng hóa, giảm chi phí vận chuyển và thời gian chờ đợi, tăng cường sự cạnh tranh và thu hút đầu tư. Ngoài ra, nó còn góp phần vào phát triển kinh tế và thương mại của một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ bằng cách tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu và thương mại quốc tế.

Bế quan tỏa cảng cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế và tạo ra môi trường đối ngoại thuận lợi. Điều này đòi hỏi sự hợp tác và cùng nhau thực hiện các biện pháp và chính sách mở cửa, bình đẳng và minh bạch trong lĩnh vực thương mại và vận tải biển.

Nhà Nguyễn thực hiện bế quan tỏa cảng

Tại Việt Nam, chính sách “bế quan tỏa cảng” được thực ở triều nhà Nguyễn. Cụ thể: 

Chính sách bế quan tỏa cảng của nhà Nguyễn

Trong thời kỳ triều Nguyễn (1802-1945) ở Việt Nam, chính sách bế quan tỏa cảng đã được áp dụng với mục tiêu mở cửa và khai thác tiềm năng kinh tế của cảng cả nước. Chính sách này đã có những yếu tố và ảnh hưởng đặc trưng như sau:

  1. Mở cửa cảng: Nhà Nguyễn cho phép các cảng nước ngoài và tàu thuyền nước ngoài có quyền tiếp cận và tham gia vào hoạt động giao thương tại các cảng Việt Nam. Điều này tạo ra một môi trường kinh doanh tự do, khuyến khích sự giao lưu và trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các quốc gia khác.
  2. Giảm thuế xuất nhập khẩu: Chính sách bế quan tỏa cảng của nhà Nguyễn cũng đi kèm với việc giảm thuế xuất nhập khẩu cho hàng hóa và tàu thuyền nước ngoài. Điều này nhằm khuyến khích hoạt động xuất nhập khẩu và thu hút các nhà buôn và thương nhân nước ngoài đến tham gia vào thị trường Việt Nam.
  3. Tăng cường hợp tác với các quốc gia khác: Nhà Nguyễn đã thực hiện chính sách ngoại giao hướng về việc thiết lập và duy trì quan hệ với các quốc gia khác. Điều này nhằm tạo cơ sở cho việc mở rộng quan hệ thương mại và hợp tác kinh tế, đồng thời tận dụng kiến thức và kỹ thuật của các quốc gia phát triển để nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh kinh tế của Việt Nam.
  4. Phát triển nền kinh tế cảng biển: Chính sách bế quan tỏa cảng cũng nhằm khuyến khích sự phát triển và nâng cấp hạ tầng cảng biển, cải thiện quy trình xúc tiến thương mại và hỗ trợ vận chuyển hàng hóa. Điều này giúp tăng cường khả năng cạnh tranh của cảng Việt Nam trên thị trường quốc tế và thu hút các hoạt động giao thương.

Tổng quan, chính sách bế quan tỏa cảng của nhà Nguyễn đã góp phần mở cửa và khai thác tiềm năng kinh tế của Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động giao thương và hợp tác quốc tế.

Tại sao nhà Nguyễn lại bế quan tỏa cảng

Ở Việt Nam, thời nhà Nguyễn kể từ sau đời vua Gia Long thì tinh thần bế quan tỏa cảng đã trở nên mạnh mẽ. Nguyên nhân của chính sách này xuất phát từ tình hình kinh tế, tôn giáo, chính trị, văn hóa và xã hội. Cụ thể:

  • Về kinh tế: Nhà Nguyên âm mưu duy trì một nền kinh tế nông nghiệp đảm bảo người dân vừa đủ ăn là được. Khi thực hiện giao thương, nền kinh tế thương mại mở ra sẽ đe dọa đến khả năng quản lý vương triều thống nhất.
Chính sách bế quan tỏa cảng của nhà Nguyễn
Chính sách bế quan tỏa cảng của nhà Nguyễn
  • Về tôn giáo: Tín ngưỡng của người Việt chính là thờ cúng tổ tiên, các vị thần linh và tổ chức các lễ hội đình làng. Trong khi đó, Công giáo chỉ thờ Chúa Jesus mà không thờ cúng tổ tiên và thần linh; không có những lễ nghi Nho giáo. Sự đối lập này chính là một trong nhiều nguyên nhân chính dẫn tới thái độ “bế quan tỏa cảng” của nhà Nguyễn.
  • Về chính trị: Các giáo sĩ Công giáo có mưu đồ chính trị nhằm chia rẽ đoàn kết dân tộc và từ đó đã dọn đường cho các cuộc xâm lược của thực dân. 
  • Về văn hóa – xã hội: Văn hóa Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn từ văn hóa Á Đông khi coi trọng Nho giáo và Khổng giáo. Khi tiếp xúc với người phương Tây da trắng, tóc vàng xa lạ về văn hóa và lối sống thì chính sách bế quan tỏa cảng là một sự lựa chọn tốt nhất.

Ngoài ra, những diễn biến lịch sử của một xã hội loạn lạc và nghèo đói từ cuối thế kỷ XVIII đã làm sự lựa chọn sau đó của Việt Nam trở nên khó khăn hơn. Kết quả là cả 2 chiều biến động nội bộ và bên ngoài ở đầu thế kỷ XIX dẫn đến nhà vua và quan lại nhà Nguyễn đều nhất trí lựa chọn bế quan tỏa cảng nhằm bảo vệ cho những gì là truyền thống xã hội – lợi ích giới cai trị.

Hệ quả của chính sách bế quan tỏa cảng nhà Nguyễn

Sự xung đột toàn diện giữa ý thức phương Tây và ý thức Á Đông; cùng sự xung đột về lợi ích thương mại và tôn giáo – văn hóa đã dẫn đến sự đụng độ ngày càng quyết liệt giữa 2 bên. Cụ thể, thời Minh Mạng chính sách quy tụ lại các giáo sĩ phương Tây không cho họ tự do hoạt động, đi lại tại Việt Nam; nhưng họ vẫn hoạt động lén lút với động cơ mạnh mẽ.

Những diễn biến sau đó đều chứng tỏ chính sách “đóng cửa” là một sai lầm vì làm cho quốc lực dần bị hao mòn, không bắt kịp được sự phát triển công nghệ – kỹ thuật của thời đại. Đồng thời, chính sách này cũng cho thấy sự sai lầm khi so sánh với những gì diễn ra tại Nhật Bản, Thái Lan.

Nho giáo được sùng ở khắp mọi nơi là một điều tất yếu vào thời nhà Nguyễn. Tuy nhiên, các Nho sĩ trí thức đương thời vì bị giới hạn của Nho giáo gói gọn trong Tứ Thư, Ngũ Kinh; chỉ lấy thơ văn làm trọng nên không chỉ hiểu biết được thế cuộc đương thời trên thế giới mà còn không biết đến các vận động của Khoa học – Công nghệ thế giới. 

“Bế quan tỏa cảng” và các hệ quả khôn lường
“Bế quan tỏa cảng” và các hệ quả khôn lường

Bên cạnh đó, hệ quả của chính sách này phải nói đến toàn bộ triều đình và đa số giới quan lại (trừ Nguyễn Trường Tộ sau này) không có khả năng nhìn nhận cũng như hiểu biết về “luồng tư tưởng mới dội vào Đông Á nhấn chìm Ấn Độ và các nước bờ biển phía Nam”. Nhà Nguyễn đã đông cứng về ý thức thế hệ khi tiếp tục lấy “sự đỗ đạt” trong các Khoa thi văn làm trọng. 

Đặc biệt, đến giữa thế kỷ XIX khi Pháp đã ổn định với sự lên ngôi của Louis Napoleon (Napoleon Đệ Tam) trong bối cảnh chậm chân hơn Anh trong việc xâm chiếm thuộc địa và sự trỗi dậy của mối liên minh Đức đã đẩy nhanh cuộc xâm lược Việt Nam. Đứng trước một xu thế thế giới mới với cách mạng công nghiệp quốc tế mới nhưng hoàn toàn xa lạ ở Việt Nam; một loạt chính sách “đóng cửa”, “cầu an”, “hòa nhượng”,… không có kế hoạch đổi mới kinh tế – công nghệ thì kết quả đương nhiên là thua cuộc. 

Bế quan tỏa cảng là chính sách được áp dụng trong thời kỳ triều Nguyễn (1802-1945) ở Việt Nam, nhằm mở cửa và phát triển cảng biển của quốc gia. Chính sách này bao gồm các yếu tố như mở cửa cảng cho tàu thuyền nước ngoài, giảm thuế xuất nhập khẩu, tăng cường hợp tác quốc tế và phát triển hạ tầng cảng biển. Mục tiêu của bế quan tỏa cảng là thu hút hoạt động giao thương, tăng cường quan hệ thương mại và nâng cao năng lực kinh tế của Việt Nam. Chính sách này đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển cảng biển, mở rộng quan hệ quốc tế và thúc đẩy nền kinh tế của quốc gia.