Docly

Chế độ quân chủ là gì? – Lịch sử lớp 7

Chế độ quân chủ chuyên chế là gì? Chế độ quân chủ chuyên chế hiện nay có còn tồn tại không?… Trên đây chỉ là hai trong số nhiều câu hỏi mà được nhiều người quan tâm. Trang tài liệu sẽ giải đáp cho bạn đọc một số vấn đề xoay quanh chế độ quân chủ chuyên chế hiện nay.

Chế độ quân chủ chuyên chế là gì?

Khái niệm: Chế độ quân chủ chuyên chế hiện chưa được định nghĩa trong các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam. Dưới góc độ nghiên cứu, chế độ quân chủ chuyên chế được hiểu là chế độ mà quyền lực tối cao của Nhà nước (giai cấp thống trị xã hội) được tập trung vào một người là vua hoặc nữ hoàng. Đối với phương đông thì người đứng đầu là vua, còn ở phương tây là nữ hoàng. 

Chế độ quân chủ chuyên chế là thể chế chính trị tồn tại trong giai đoạn nhà nước phong kiến. Đây là giai đoạn mà vua, nữ hoàng chính là sự thể hiện của pháp luật quốc gia. Nói cách khác, mọi chính sách, quyết định về pháp luật đều do vua, nữ hoàng thực hiện. 

Toàn bộ bộ máy Nhà nước, việc bổ nhiệm, sắc phong, miễn nhiệm, bãi nhiệm, cách chức các chức danh quan lại giúp việc cho vua, nữ hoàng đều do vua, nữ hoàng quyết định. Chế độ quân chủ chuyên chế cho phép vua, các vương (lãnh chúa, người được phong đất, phong danh hiệu, người thân thích của vua, nữ hoàng) được tạo dựng quân đội riêng, được đặt luật lệ riêng, được thu thuế riêng trong phạm vi lãnh thổ của mình.

Nguồn gốc quân chủ ở Việt Nam

Ở Việt Nam, triều Nguyễn Gia Long cũng là một mẫu hình quân chủ chuyên chế tuyệt đối. Gia Long, làm khác với các triều đại trước, chủ trương “tứ bất – bốn không” – không lập tể tướng, không lập hoàng hậu, không lập thái tử, thì không lấy trạng nguyên. Vua không muốn chia quyền với ai. Vua trực tiếp làm mọi việc lớn nhỏ: nắm các bộ, án lớn, chấm các bài thi đình, phê các tấu sớ… để các nhà nho đương thời đã phải nhận xét: lớn như thiên hạ, nhỏ như một nước, nếu việc gì (nhà vua) cũng tự làm lấy thì dù một bậc thượng triết cũng không tranh khôn với thiên hạ, mà tranh khôn với thiên hạ là chạy đua với ngựa kí mà chạy đua với ngựa kí thì ít khi không vấp ngã.

Nhà nước quân chủ hạn chế thường thấy trong các nhà nước tư sản, ra đời trên cơ sở của sự thoả hiệp giữa giai cấp tư sản và tầng lớp quý tộc phong kiến, khi giai cấp tư sản chưa đủ mạnh để lật đổ vương quyền phong kiến, còn tầng lớp quý tộc quan liêu thì còn lực lượng và có khi lợi dụng tâm lí tôn trọng vương quyền và uy tín của nhà vua để thoả hiệp, duy trì một phần những đặc quyền, đặc lợi; cũng có trường hợp trước khí thế mạnh mẽ của các tầng lớp nhân dân đông đảo, giai cấp tư sản và tầng lớp quý tộc tìm thấy trong sự thoả hiệp khả năng áp đảo lại lực lượng quần chúng, thống nhất với nhau duy trì chế độ quân vương hạn chế với sự hạn chế quyền lực của vua bằng một hiến pháp, cũng vì vậy, thường được gọi là quân chủ lập hiến. Trong thời đại ngày nay, phần lớn các nước theo chế độ quân chủ lập hiến đã thành những nhà nước theo chế độ đại nghị, quốc hội, nghị viện giữ quyền lập pháp còn quyền hành pháp nằm trong tay chính phủ, quốc vương chỉ còn vai trò tượng trưng có tính truyền thống. Xét từ góc độ tìm kiếm những cơ sở bảo lãnh cho quyền lực của giai cấp có của, duy trì ưu thế chính trị cho giai cấp cầm quyền, chính thể quân chủ lập hiến với quốc vương luôn giữ vị trí của nguyên thủ quốc gia, lúc bình thường chỉ hạn chế vai trò trong tượng trưng tiêu biểu của quốc gia nhưng khi nguy cấp, vẫn có thể trở thành một lực cản chính trị đối với những phong trào cấp tiến có yêu sách thay đổi cơ bản chế độ xã hội.

Chế độ quân chủ tiếng anh là :

Chế độ quân chủ tiếng Anh là: Monarchy

Bộ máy Nhà nước quân chủ chuyên chế như thế nào?

Tuy rằng chế độ quân chủ chuyên chế là chế độ tập trung quyền lực, nhưng cũng có nhiều người, nhiều bộ phận giúp việc cho vua, nữ hoàng. Vua, nữ hoàng thông qua hệ thống quan lại, lãnh chúa, vương tại các khu vực đất đai để truyền đạt, thể hiện quyền lực của mình. Cụ thể như sau:

– Đối với phương đông: Giúp việc cho vua có các bộ. Các bộ này có thể gồm: Bộ lại (tương đương với Bộ Nội vụ hiện nay, quản lý các vấn đề nội bộ, các chức quan của triều đình), Bộ lễ (cơ quan thực hiện các công việc liên quan đến nghi lễ, lễ tiết của triều đình), Bộ hộ (cơ quan thực hiện các công việc liên quan đến nhân khẩu, ruộng đất, đồ tiến cống của các quốc gia, vùng lãnh thổ, các loại thuế về muối và sắt, các công việc liên quan đến bổng lộc quan lại), Bộ binh (là cơ quan quân đội, thực hiện các công việc liên quan đến bảo vệ kinh đô, bảo vệ lãnh thổ, quản lý quân nhu, tương đương với Bộ Quốc phòng), Bộ hình (cơ quan xét xử tội phạm), Bộ công (liên quan đến thực hiện các công việc về xây dựng, đê điều, mương, hào..).

Quân chủ chuyển chế

Chính thể quân chủ chuyên chế là hình thức nhà nước, trong đó người đứng đầu nhà nước được thiết lập theo nguyên tắc kế truyền với quyền lực vô hạn.

Để thực thi quyền lực tối cao, người đứng đầu nhà nước (vua, quốc vương, hoàng đế) theo chính thể quân chủ chuyên chế thường lập ra cả một bộ máy gọi là triều đình, gồm có nhiều bộ, mỗi bộ được giao quản lí một lĩnh vực thuộc vương quyền tuyệt đối.

Trong khuôn khổ của vương triều phong kiến, ở những thời đoạn nhất định, có việc sử dụng các hình thức tư vấn, tham mưu, chẳng hạn, dưới triều nhà Nguyễn với các ông vua nổi tiếng chuyên chế như Gia Long, Minh Mạng đã lập ra các thiết chế gọi là “Hội đồng đình nghị” hoặc “Phiếu nghĩ”. Theo Chiếu dụ năm 1802 của vua Gia Long, mỗi tháng có 4 kì quan chức trong triều họp lại để “đỉnh nghƒ. Nội dung đình nghị gồm những công việc như bàn bạc giải quyết những việc quan trọng, khó khăn mà cơ quan chuyên trách không dám tự mình giải quyết; xử phúc thẩm các bản án đã được xét xử tại toà án địa phương nhưng có người kêu oan xin xét lại; bàn bạc giải quyết những đơn thưa kiện của dân chúng về tệ quan lại sách nhiễu, tham nhũng. Từ năm 1833, để có thể trực tiếp giải quyết mọi công việt hành chính đặc biệt, vừa có tác dụng tham mưu cho vua, vừa có tác dụng giám sát thay vua, Minh Mạng đã có chỉ dụ: “Tất cả mọi sớ tâu và bản đề nghị thì chuyển cho quan 6 bộ và nội các phiếu nghĩ”. Khi có sớ tâu từ các địa phương, quan chức chuyên môn của bộ phải xem xét nội dung. Từ văn phòng bộ, những đề nghị về cách giải quyết công việc được nêu trong tấu sớ của các tỉnh và văn bản chuẩn bị đó được gọi là “thiết nghĩ. “Thiết nghĩ” được đính kèm theo tấu sớ để chuyển tới nội các trình lên vua xem xét và phê duyệt. Là người quyết định tối hậu, nếu đồng ý vua phê chuẩn và xem đó là ý vua, nếu không đồng ý, vua huỷ bỏ.

Tại các triểu đình, để giúp vua điều hành các công việc, chức tế tướng hoặc thừa tướng thường được lập ra với những quyền hành rộng rãi. Nhưng đó không phải là sự hạn chế quyền lực tối cao, tuyệt đối của vua, vì nhà vua có thể bãi bỏ bất kì lúc nào các thiết chế do mình lập ra đó và mọi hành vi làm trái, vượt quá nhiệm vụ, quyền hạn được giao đều có thể bị xử lí nghiêm khắc.

Ở nhà nước quân chủ chuyên chế, quyền lực tối cao trong nước, về mặt hình thức thuộc về một người – vua, quốc vương, hoàng đế. Nhà vua vừa là người duy nhất đặt ra pháp luật, vừa là người có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm bất kì quan lại cao cấp nào trong bộ máy nhà nước, đồng thời, là người có quyền tối hậu trong việc xét xử.

Người đứng đầu nhà nước quân chủ chuyên chế (vua, quốc vương, hoàng đế) thường được kế truyền theo ba nguyên tắc: 1) Trọng nam, theo đó ưu tiên truyền ngôi cho con trai, không có con trai mới truyền ngôi cho con gái; 2) Trọng trưởng, ưu tiên truyền ngôi cho con trai trưởng, trừ trường hợp con trai trưởng có những khiếm khuyết về trí tuệ, tài năng hoặc đức độ; 3) Lãnh thổ bất khả phân, ngai vàng chỉ truyền cho một người để đảm bảo lãnh thổ không bị phân chia.

Chính thể quân chủ chuyên chế là hình thức chính thể phổ biến của nhà nước chủ nô và nhà nước phong kiến. Hiện nay, chính thể quân chủ chuyên chế chỉ tồn tại ở một số quốc gia Hồi giáo như Arập Xêut, vương quốc Quata, vương quốc Ôman…

Quân chủ hạn chế

Nhà nước quân chủ hạn chế thường thấy trong các nhà nước tư sản, ra đời trên cơ sở của sự thoả hiệp giữa giai cấp tư sản và tầng lớp quý tộc phong kiến, khi giai cấp tư sản chưa đủ mạnh để lật đổ vương quyền phong kiến, còn tầng lớp quý tộc quan liêu thì còn lực lượng và có khi lợi dụng tâm lí tôn trọng vương quyền và uy tín của nhà vua để thoả hiệp, duy trì một phần những đặc quyền, đặc lợi; cũng có trường hợp trước khí thế mạnh mẽ của các tầng lớp nhân dân đông đảo, giai cấp tư sản và tầng lớp quý tộc tìm thấy trong sự thoả hiệp khả năng áp đảo lại lực lượng quần chúng, thống nhất với nhau duy trì chế độ quân vương hạn chế với sự hạn chế quyền lực của vua bằng một hiến pháp, cũng vì vậy, thường được gọi là quân chủ lập hiến.

Hầu hết các quốc gia Quân chủ hiện nay đều theo chế độ Quân chủ lập hiến hay Quân chủ đại nghị, Quân chủ Cộng hòa. Vua (hay Nữ hoàng) là nguyên thủ quốc gia nhưng chỉ mang tính tượng trưng hơn là thực quyền. Còn hoạt động lập pháp do nghị viện nắm giữ, hoạt động hành pháp do thủ tướng nắm giữ, và hoạt động tư pháp do tòa án đảm nhiệm (Tam quyền phân lập).

Các quốc gia Vương quốc Khối thịnh vượng chung không có vua hay nữ hoàng riêng, mà xem Vua Anh hay là Nữ hoàng Anh như quốc vương chung của họ và ở mỗi quốc gia này đều có 1 Toàn quyền thay mặt cho vương quyền từ Anh Quốc.

Tại các công quốc như Luxembourg, Monaco, Andorra, Liechtenstein, người đứng đầu là Đại công tước hay là Hoàng thân, Vương công. Tại Mã Lai Á và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất còn tồn tại hình thức các tiểu vương.