Đề Thi Thử THPT Quốc Gia 2022 Môn Văn Bộ GD&ĐT Có Đáp Án
Đề thi tham khảo
Đề Thi Học Kỳ 1 Lịch Sử 12 Quảng Nam Có Đáp Án – Đề 1 |
Tóm Tắt Lý Thuyết, Công Thức Theo Từng Chương Vật Lý 12 |
Đề Thi Minh Hoạ THPT Quốc Gia 2021 Môn Toán (Đề 14) |
Đề Thi Thử THPT Quốc Gia 2022 Môn Văn Bộ GD&ĐT Có Đáp Án được Trang Tài Liệu sưu tầm với các thông tin mới nhất hiện nay. Đề thi này sẽ giúp các em học sinh ôn tập, củng cố kiến thức, rèn luyện kĩ năng làm bài. Cũng như hỗ trợ thầy cô trong quá trình giảng dạy. Hy vọng những tài liệu này sẽ giúp các em trong quá trình ôn luyện và đạt kết quả cao trong bài thi sắp tới.
“Đề Thi Thử THPT Quốc Gia 2022 Môn Văn” là một bộ đề thi mô phỏng theo định dạng của kỳ thi THPT Quốc gia, được biên soạn bởi Bộ Giáo dục và Đào tạo. Bộ đề này bao gồm những câu hỏi và bài tập thực tế, giúp bạn nắm vững kiến thức văn học và các kỹ năng phân tích văn bản.
Đề thi được chia thành các phần tương ứng với các chủ đề trong chương trình học môn Văn. Bạn sẽ gặp phải các bài đọc hiểu, phân tích văn bản, viết văn và câu hỏi về văn học. Mỗi câu hỏi và bài tập đều được trình bày một cách cụ thể và có độ khó tương đối, giúp bạn nắm vững kiến thức và rèn kỹ năng giải quyết vấn đề văn học.
Cùng với đề thi, tài liệu cung cấp đáp án chi tiết và lời giải, giúp bạn hiểu rõ cách suy nghĩ và phân tích văn bản. Bạn sẽ được hướng dẫn cách tiếp cận văn bản, tìm hiểu ý nghĩa và phân tích các yếu tố văn học.
Dưới đây là bản đọc trực tuyến giúp thầy cô và các em học sinh có thể nghiên cứu Online hoặc bạn có thể tải miễn phí với phiên bản word để dễ dàng in ấn cũng như học tập Offline
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỀ THI THAM KHẢO |
KỲ THI TỐT NGHIỆP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NĂM 2022 BÀI THI: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề |
I.
ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Đọc đoạn trích
một con sông chảy qua thời gian chảy qua lịch sử chảy qua triệu triệu cuộc đời chảy qua mỗi trái tim người khi êm đềm khi hung dữ một con sông rì rầm sóng vỗ trong muôn vàn trang thơ làm nên xóm thôn, hoa trái, những ngôi nhà tạo sắc áo, màu cây, và tiếng Việt [...] máu ta mang sắc đỏ sông Hồng nỗi khổ và niềm vui bất tận |
luôn luôn mới đến, luôn luôn ra đi luôn già nhất và luôn trẻ nhất sông để lại trước khi về với biển không phải màu đen độc ác của quân thù không phải gươm đao ngàn năm chiến trận không phải nghẹn ngào tiếng nấc sau sụp lở hưng vong sau thù hận sóng trào là bãi mới của sông xanh ngát là đất đai lấn dần ra biển là tâm hồn đằm thắm phù sa dâng yêu thương đỏ rực đôi bờ |
(Trích Sông Hồng, Lưu Quang Vũ, Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi,
NXB Hội Nhà văn, 2018, tr. 286-288)
Trả lời các câu hỏi sau:
Câu 1. Đoạn trích trên được viết theo thể thơ nào?
Câu 2. Theo đoạn trích, sông Hồng đã đề lại những gì trước khi về với biền?
Câu 3. Những dòng thơ sau giúp anh/chị hiểu gì về vai trò của sông Hồng đối vói đời sống con người Việt Nam?
-
một con sông rì rầm sóng vỗ
trong muôn vàn trang thơ
làm nên xóm thôn, hoa trái, nhũng ngôi nhà
tạo sắc áo, màu cây, và tiếng Việt
Câu 4. Nội dung hai dòng thơ sau có ý nghĩa gì với anh/chị?
máu ta mang sắc đỏ sông Hồng
nối khổ và niềm vui bất tận
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về sự cần thiết phải trân trọ̣ng những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Câu 2 (5,0 điểm)
Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vìa xót thương cho số kiếp đúa con mình. Chao ôi, nguoòi ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nồi, nhũng mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn minh thi... Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà ri xuống hai dòng nước mắt... Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không.
Bà lão khẽ thở dài ngủng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp buớc khó khăn, đói khổ này, người ta mói lấy đến con minh. Mà con mình mới có vợ được... Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lăng được cho con... May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chú biết thế nào mà lo cho hết được?
Bà lão khẽ dạng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với "nàng dâu mới":
-Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...
Tràng thở đánh phào một cái, ngục nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng buớc dài ra sân. Bà cu Tú vẫn từ tốn tiếp lời:
- Nhà ta thì nghèo con ạ.Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau.
(Trích Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2020, tr. 28-29)
Phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích trên; từ đó, nhận xét tư tưởng nhân đạo của nhà văn Kim Lân được thể hiện trong đoạn trích.
………………….Hết………………….
Thí sinh không được sù dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm
GỢI Ý
Câu
1:
Thể thơ tự
do.
Câu 2:
Để
lại: Bãi mới của sông xanh ngát Đất đai lấn dần ra
biển Tâm hồn đằm thắm phù sa/ dâng yêu thương đỏ
rực đôi bờ.
Câu 3:
Câu
thơ trên thể hiện những vai trò của sông Hồng:
-
Sông Hồng làm nên giá trị văn hoá, văn học, làm nên
đời sống tinh thần, vật chất cho con người.
- Sông
hồng làm nên lịch sử dân tộc.
Câu
4:
Câu trên có thể hiểu:
Sông Hồng của ngày hôm nay mang trong mình cả máu, nước
mắt của dân tộc trong những năm oằn mình chiến đấu
với giặc. Nhưng sông Hồng của là niềm vui chiến
thắng.
II. LÀM VĂN
Câu
1:
1. Giới thiệu
chung: Sự cần thiết trân trọng giá trị văn hoá dân
tộc
2. Giải thích: Văn hoá dân tộc là những giá
trị tốt đẹp, ý nghĩa về vật chất, tinh thần tồn
tại qua hàng nghìn năm. Nét văn hoá ấy làm nên chất
riêng, bản sắc riêng của con người Việt.
=>
Giữ gìn, trân trọng giá trị văn hoá dân tộc là điều
vô cùng quan trọng đối với mỗi con người.
3. Bàn
luận:
* Vì sao cần phải trân trọng giá trị văn hoá
dân tộc?
- Biểu hiện của lòng yêu đất
nước.
- Bảo vệ giá trị văn hóa là bảo vệ
nền tảng tinh thần của dân tộc.
- Những giá
trị văn hoá dân tộc tạo nên sức mạnh đoàn kết, nối
kết các thế hệ.
* Cần làm gì bảo vệ những
giá trị văn hoá dân tộc?
- Nhà nước có chính
sách bảo vệ những giá trị văn hoá.
- Mỗi cá
nhân cần ý thức được ý nghĩa của những giá trị văn
hoá, từ đó bảo vệ, trân trọng những giá trị đó.
*
Mở rộng:
- Phê phán những kẻ phá hoại những
nét đẹp của văn hoá dân tộc.
- Cần học tập
để hiểu rõ giá trị văn hóa dân tộc.
- Tuyên
truyền, tham gia giữ gìn, bảo vệ giá trị văn hóa.
4.
Tổng kết.
Câu 2:
I.
Mở bài:
- Giới
thiệu tác giả, tác phẩm:
+ Kim Lân là cây bút
văn xuôi tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Các sáng
tác của ông thiên về chủ đề nông thôn và người nông
dân nghèo với ngòi bút phân tích tâm lý nhân vật tài
tình.
+ Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất
sắc của Kim Lân viết trong bối cảnh nạn đói năm 1945.
Tác phẩm đã ngợi ca giá trị tình thần của con người
ngay trên bờ vực cái chết.
- Giới thiệu vấn đề
nghị luận của bài viết: cảm nhận về nhân vật bà cụ
Tứ trong đoạn trích, từ đó bình luận ngắn gọn về
tư tưởng nhân đạo của nhà văn trong tác phẩm
II.
Thân bài
1) Cảm nhận về
nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích.
a) Giới thiệu
nhân vật
- Bà cụ Tứ là một người đàn bà
nghèo khổ, cơ cực, phải tha phương cầu thực, trở
thành dân ngụ cư với những thiệt thòi trước định
kiến của xã hội. Chồng bà đã mất từ sớm, nhà chỉ
còn mẹ góa con côi nuôi nhau đắp đổi qua ngày.
-
Cả đời bà lão long đong, lận đận, đến lúc gần đất
xa trời mà vẫn không có tiền để thực hiện được
ước mơ lớn nhất là lấy vợ cho con. Và giữa lúc đói
kém, vào tâm điểm nạn đói năm 1945, người chết như
ngả rạ khắp nơi, anh con trai lại lấy được vợ, đúng
hơn là “nhặt vợ”.
- Vì quá bất ngờ nên bà
lão hết sức ngạc nhiên, đến mức không dám tin vào
những gì mình nhìn thấy và nghe thấy. Mãi rồi cuối
cùng bà lão cũng hiểu ra “cơ sự”. Đó là tình huống
để bắt đầu những dòng cảm xúc của bà cụ Tứ trong
đoạn trích.
b) Cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ
trong đoạn trích
* Đoạn 1: “Bà lão cúi đầu nín
lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy
còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót
thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng
vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi,
những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…
Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước
mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua
được cơn đói khát này không.”
-> Phản ứng đầu
tiên của bà cụ Tứ sau khi nghe lời giới thiệu của con
trai về người đàn bà lạ “nhà tôi nó mới về làm
bạn với tôi đấy u ạ”, khi hiểu ra sự tình là “cúi
đầu nín lặng”.
- “Bà lão hiểu rồi”: Phải
sau rất nhiều sự kiện, đến tận lúc này, khi anh con
trai phải nói một cách tường minh thì bà cụ Tứ mới
hiểu. Một người phụ nữ trải đời, một người mẹ
lẽ thường sẽ rất nhạy cảm với chuyện hệ trọng cả
đời của đứa con trai độc nhất, thế mà mãi đến bây
giờ mới hiểu ra sự tình. Vô lí nhưng lại hợp lí bởi
bà không thể tưởng tượng con trai bà có thể lấy vợ
dễ dàng đến thế.
- Cái cử chỉ cúi đầu cho thấy
sự nặng trĩu trong tâm tư khi bà không chỉ hiểu ra sự
tình- rằng người đàn bà lạ đứng ở đầu giường
thằng con trai bà và chào bà bằng u kia chính là “vợ
nhặt” theo không về làm con dâu của bà, mà bà còn
“hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự” bằng những trải
nghiệm của cả một cuộc đời nghèo khổ dằng dặc.
Cho nên lẽ ra phải mừng rỡ thì bà cúi đầu, thứ ngỡ
là hạnh phúc với bà lại trở thành gánh nặng. Niềm
vui không thể cất cánh bởi nỗi lo áo cơm ghì sát đất.
-
Bà nín lặng vì không biết phải nói gì khi trong bà đang
thức dậy bao nhiêu cảm xúc hỗn độn “vừa ai oán vừa
xót thương cho số kiếp đứa con mình”.
+ Bà
thấy tủi cho con, cũng là tủi cho mình “Chao ôi, người
ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm
nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn
mình thì…”. Dấu chấm lửng ấy chính là sự thảm hại
đến tận cùng của đói nghèo. Vì vậy mà mối nhân
duyên của con trai bà mới trở thành câu chuyện nhặt vợ
nhặt chồng rẻ rúng. Phút so sánh ấy còn ẩn chứa cả
cảm giác tội lỗi, vì không làm tròn bổn phận của
người mẹ, lo được cho con một đám cưới trọn vẹn.
+
Bà cũng không tránh khỏi cảm giác lo lắng “Biết rằng
chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát
này không”. Câu hỏi không có lời đáp, là vì chính bà
cũng không dám hi vọng vào một cái kết lạc quan, khi
xung quanh bà là sự bao vây của cái đói, cái chết
->
Giữa những cảm xúc hỗn độn đó, “Trong kẽ mắt kèm
nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt…”. Hình ảnh
này có sự gặp gỡ với giọt nước mắt khổ đau của
lão Hạc “những nếp nhăn xô lại vào nhau ép cho nước
mắt chảy ra”. Giọt nước mắt của người già hiếm
hoi lắm “Tuổi già hạt lệ như sương” (Nguyễn
Khuyến), thế mà vẫn trào ra khóe mắt bởi những cảm
xúc dâng trào trong tình huống đặc biệt.
* Đoạn 2:
“Bà lão khẽ thở dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người
đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách
bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước
khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con
mình. Mà con mình mới có vợ được… Thôi thì bổn phận
bà làm mẹ, bà đã chẳng lo được cho con…May ra mà qua
khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có
vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng
phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?”
->
Sau những giây phút cúi mặt với nỗi lòng nặng trĩu,
với những cảm xúc tiêu cực, cuối cùng bà lão cũng
ngửng lên để đối mặt với thực tại:
- Bà “đăm
đăm nhìn người đàn bà”, chăm chú quan sát người phụ
nữ xa lạ đã dũng cảm theo không con trai bà để xây
dựng tổ ấm. Trong tầm mắt nhìn của bà “thị cúi mặt
xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”. Đó là những
cử chỉ, điệu bộ, dáng vẻ của một người đang thiếu
tự tin, dường như còn mang theo cả mặc cảm tội lỗi,
thậm chí cả một chút sợ hãi. Bởi thị đường đột
về đây mà chưa được sự cho phép của người lớn, mà
nói như Thúy Kiều thì:
Dù khi lá thắm chỉ hồng
Nên
chăng thì cũng tại lòng mẹ cha
-
Cái tà áo rách bợt đã giúp bà hiểu thêm về gia cảnh
của thị, về sự khó khăn đói khổ đến cùng cực, từ
đây đã khơi lên ở bà tình thương ở những người
đồng cảnh. Thương người, rồi lại thương con mình, vì
vậy mà hướng bà đến những ý nghĩ tích cực hơn:
+
Bà nhìn nhận cuộc hôn nhân này là sự may mắn của gia
đình bà “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ
này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới
có vợ được…”. Hơn ai hết, bà hiểu những thiệt
thòi của con trai mình: lí lịch ngụ cư, gia cảnh nghèo,
ngoại hình lại không hấp dẫn, nên đã đến tuổi dựng
vợ gả chồng mà suốt bao lâu nay không lấy nổi vợ.
Bây giờ có người sẵn sàng cùng con bà chung tay xây dựng
tổ ấm, bà còn mong gì hơn. Như vậy, thay vì coi thường
người vợ nhặt của con trai, bà xem thị như ân nhân của
gia đình mình.
+ Bà trông chờ, hi vọng vào sự may
mắn mơ hồ “May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này
thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó” và dũng
cảm đối mặt với những tình huống xấu nhất “chẳng
may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế
nào mà lo cho hết được?” -> bà nghĩ đến trọn vẹn,
thấu đáo mọi chiều để sẵn sàng đón nhận
* Đoạn
3:“Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói
với “nàng dâu mới”:
- Ừ, thôi thì các con đã
phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…
Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn
đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng bước dài ra
sân.”
-> Cuối cùng, giữa những cảm xúc hỗn độn
vừa mừng vừa tủi, với tình yêu thương con và tấm
lòng nhân hậu, bà đã mở rộng vòng tay với người con
dâu tội nghiệp. Câu nói đầu tiên của bà sau những
giây phút cúi đầu nín lặng “Ừ, thôi thì các con đã
phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng” là
sự đón nhận chính thức người con dâu mới. Mừng lòng
chứ không phải là bằng lòng miễn cưỡng. “Phải duyên
phải kiếp” nghĩa là cuộc hôn nhân do ông tơ bà nguyệt
xe duyên chứ không phải chuyện nhặt vợ nhặt chồng rẻ
rúng nữa. Bà đã khiến cho cuộc hôn nhân của Tràng và
người vợ nhặt trở nên bình đẳng, đẹp đẽ như
những cuộc hôn nhân bất kì nào khác. Lời đón nhận
của bà như trút hẳn gánh nặng đang đè trĩu lồng ngực
của anh Tràng “Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ
hẳn đi” và chắc hẳn đó cũng là những cảm xúc của
người con dâu.
* Đoạn 4: “Bà cụ Tứ vẫn từ tốn
tiếp lời:
- Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng
mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời
cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba
đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau.
- Những
lời dặn dò tiếp sau của bà là sự vun vén cho đôi trẻ,
hướng các con vào tương lai tươi sáng “Vợ chồng chúng
mày liệu bảo nhau mà làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho
khá… Biết thế nào hả con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?
Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”. Một lời động
viên con giản dị, mang đậm niềm tin tâm linh của một
bà mẹ nông dân từng trải, nhưng cũng thật cần thiết,
bởi đó chính là nguồn động lực giúp cho mẹ con bà đủ
vững vàng để vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt nhất
của cái đói, cái chết.
c) Đánh giá chung:
* Bà
cụ Tứ: Đoạn trích là những diễn biến tâm lí rất
xúc động của bà cụ Tứ với đầy đủ các cung bậc
của cảm xúc. Từ đó mà bà cụ Tứ hiện lên là linh
hồn của tác phẩm, là hình tượng tiêu biểu cho vẻ đẹp
các bà mẹ Việt nam: rất nhân hậu, rất bao dung, giàu
lòng nhân ái, thương con vô hạn, hết lòng vun đắp cho
các con được hạnh phúc, khát khao sống, khát khao yêu
thương và truyền được ngọn lửa sống ấy từ mình
sang cho các con.
* Đặc sắc nghệ thuật:
- Đặt
nhân vật vào tình huống độc đáo, éo le để tạo cơ
hội cho nhân vật bộc lộ, tỏa sáng những vẻ đẹp tâm
hồn
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
+
Miêu tả tinh tế diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ -
người mẹ nông dân chất phác mà trải đời sâu sắc
+
Dựng đối thoại sinh động với ngôn ngữ nông dân theo
lứa tuổi, giới tính… mộc mạc, chân thực và sinh động
tạo được sức hấp dẫn riêng.
2) Giá trị nhân đạo
sâu sắc của tác phẩm.
Qua hình ảnh nhân vật
bà cụ Tứ trong đoạn trích, tác giả đã đồng cảm xót
thương với số phận đau khổ của người nông dân trong
nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đặc biệt, tác giả đã
phát hiện, trân trọng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của
họ: dù nghèo đói và khổ cực đến đâu, ngay cả khi kề
bên cái chết, họ vẫn thương yêu đùm bọc lẫn nhau,
vẫn khao khát hạnh phúc gia đình, và không gì có thể
cướp đi niềm tin vào cuộc sống và tương lai của họ
->
Kim Lân tâm sự: "Khi viết về nạn đói người ta
thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về
con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con
người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một
truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù
cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không
nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn
hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống,
sống cho ra con người”.
III.
Kết bài
Khẳng định giá
trị của tác phẩm và vị trí của tác giả./.
Ngoài Đề Thi Thử THPT Quốc Gia 2022 Môn Văn Bộ GD&ĐT Có Đáp Án thì các đề thi trong chương trình lớp 12 sẽ được cập nhật liên tục và nhanh nhất có thể sau khi kỳ thi diễn ra trên Danh mục Kho Đề Thi nhằm giúp các bạn đọc thuận tiện trong việc tra cứu và đối chiếu đáp án. Quý thầy cô và các bạn đọc có thể chia sẻ thêm những tài liệu học tập hữu ích đến địa chỉ email của chúng tôi, nhằm xây dựng nên kho đề thi phong phú, đa dạng cho các em học sinh tham khảo và rèn luyện.
Xem thêm