Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà chọn lọc [SIÊU HAY]
Phân tích hình tượng Người lái đò sông Đà – Hình tượng người lái đò trong Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân hiện lên như một dũng tướng tài ba, là một nghệ sĩ lão luyện trong nghề chèo đò vượt thác. Dù hằng ngày luôn phải đối mặt với hiểm nguy đối mặt với cái chết nhưng người lái đò vẫn thể hiện sự bình tĩnh, chủ động, tự tin, không mảy may lo sợ. Có thể nói bên cạnh hình tượng con sông Đà hung hiểm thì người lái đò cũng chính là tinh hồn của tác phẩm.
Mục lục
Sau đây là tổng hợp các bài văn mẫu về vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của người lái đò, cảm nhận về hình tượng người lái đò sông Đà, hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác, dàn ý hình tượng người lái đò sông Đà được Trang Tài Liệu chia sẻ trong bài viết này sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích để các em học sinh hiểu rõ hơn về hình tượng người lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” của tác giả Nguyễn Tuân.
Dàn ý phân tích hình tượng người lái đò sông Đà
Dàn ý mẫu 1
1) Mở bài
– Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của thế kỉ XX. Nền văn xuôi luôn in hằn những dấu vết nghiêm túc và đầy sáng tạo trong lao động nghệ thuật của ông.
– tác phẩm Người lái đò sông Đà là thi phẩm điển hình, thành công đánh dấu vị trí hướng đi, suy nghĩ của ông sau cách mạng tháng tám.
2) Thân bài
a) Khung cảnh con sông Đà
Theo Nguyễn Tuân con sông Đà như nhân tố có hình thù, cá tính với hai tính cách cơ bản: hung bạo và trữ tình.
*Tính cách hung bạo và nét hùng vĩ của sông Đà
- “Ở khoảng sông hẹp, bờ sông chẹt lại như một cái yết hầu, hai bờ đá đứng thành vách, mặt sông đoạn ấy rất sâu, tối, đúng ngọ mới thấy mặt trời…” “đi giữa thuyền hè vẫn thấy lạnh, nhìn lên chỉ thấy một ô sáng như cửa sổ có đèn…”
- Ngôn ngữ được sử dụng rất giàu chất tạo hình, kĩ thuật điện ảnh để diễn tả từng đường nét, ánh sáng, quan sát ở nhiều góc độ nên tác giả mới tạo dựng nên cảnh bờ sông một cách động, toát lên vẻ hùng vĩ, dữ dội mà hiểm trở, nhiều cảm giác.
- “Những cái hút nước ở Tà Mường Vát như những cái giếng bê tông khổng lồ đang xoáy tít đáy mà mặt giếng, thành giếng xây toàn nước sông xanh ve như một áng thủy tinh khối đúc dày…” “Nước sôi lên ằng ặc… Nếu ngồi trong thuyền thúng dưới đáy cái hút nước ấy mà lia ống kính ngược lên thì sẽ truyền cho người xem trong rạp một cảm giác quay cuồng…”
- Ngôn ngữ vô cùng sắc cạnh, hình ảnh lạ, đầy nguy hiểm được tả rõ nét, sống động, làm toát lên vẻ dữ dội, ghê gớm của máy hút nước trên sông, hiện lên nét mặt dữ dằn của dòng sông.
- Đoạn ghềnh sông “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” tiếp đến là những thác nước, từ xa nghe tiếng như là oán trách, rồi lại van xin, sau đó lại rống lên như một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn mắc kẹt giữa rừng tre nổi lửa… mặt sông rung lên tung bọt trắng xóa…
- Vốn từ phong phú, ngôn ngữ giàu sức tạo hình, câu văn phóng túng, nghệ thuật vừa nhân hóa vừa cân nhắc làm hình ảnh con sông hiện lên có hình thù và tâm tính rõ nét. Âm thanh phát ra cuồng nộ, cơn giận dữ cho thấy bản tính hung hãn.
- Trận thủy chiến trên sông với bày trí thạch trận, nhiều vòng vây với lực lượng phối hợp của đá tảng, con sóng ngầm hò la vang động núi trời…
- Qua việc miêu tả cận cảnh, chi tiết, sử dụng từ ngữ giàu sức tạo hình, gợi tả, nhà văn đã làm hiện lên hình ảnh sông Đà hung bạo, cuồng nộ khi vặn mình thương xót qua những tảng đá. Qua đó cho thấy sự uyên bác trong trang văn, sự hóm hỉnh, linh hoạt thuần khiết tạo của tác giả.
*Tính cách trữ tình
- Chảy qua vùng bình nguyên hoặc khi đứng từ trên nhìn xuống, sông Đà trở nên hiền hòa đến lạ, tưởng như một người bạn của con người.
- Từ trên máy bay nhìn xuống, “sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình… ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung hoa ban hoa gạo”: qua cái nhìn say đắm, chìm sâu của nhà văn sông Đà trở nên tuyệt vời, màu sắc đa dạng, lấp lánh
- hình ảnh thơ mộng, phép so sánh giữa giàu giá trị biểu cảm, ngòi bút linh hoạt, mềm mại làm đặc sắc sông Đà có vẻ xinh xắn dịu dàng, hiền hòa, mộng mơ.
- “Từ trên dốc nhìn xuống thấy mặt sông lấp lánh như đứa trẻ nghịch chiếu gương… sáng lên một màu nắng tháng ba Đường Thi”
- Một phép so sánh giữa độc đáo, mới lạ, giọng văn nhẹ nhàng cho thấy vẻ hồn nhiên, thanh bình của sông “sông vui như nối lại chiêm bao ngắt quãng… đằm thắm ấm ấm như gặp lại cố nhân…”
- nhà văn nhìn ra phương diện chiều sâu của sông, một vẻ xinh xắn thân thiện, dễ thương, hơi ấm của tình người trong dòng sông. Hơn nữa, dòng sông trở thành người bạn hiền dịu, cởi mở, niềm nở đợi người phương xa trở về.
- Dưới thuyền nhìn lên thấy “bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, bờ sông tinh khôi như nỗi nhớ cổ tích tuổi xưa..”
- Một phép so sánh giữa độc lạ, từ không gian liên tưởng về thời gian, có sự mở rộng biên độ làm cho con sông mang nét hoang dã, cổ xưa nhưng thuần khiết
- Trên đồi cỏ non “con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương ngơ ngác…” như đang hỏi thăm ông khách sang sông. Tiếng cá đập nước, con lững lờ trôi nhớ thương…
- Biện pháp nhân hóa giàu chất thơ khiến dòng sông trở nên ngây thơ, hoang sơ, tinh khiết lộ diện xinh đẹp như tranh vẽ ở mọi góc nhìn. Vẻ xinh đẹp hiền hòa, yên bình của sông góp phần tô điểm cho cảnh quang non sông quốc gia.
- diễn tả sông Đà như một kí sự bằng ngòi bút linh hoạt, phong phú, giàu sức gợi, như thế mới thấy Nguyễn Tuân tài năng, đằng sau sự say mê miêu tả dòng sông còn là tình yêu Đất nước, nâng niu tiếng mẹ đẻ…
b) Hình tượng ông lái đò
*Ngoại hình, giọng nói
- “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, đầu bạc quắc thước, thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng mun, đôi cánh tay trẻ trắng quá…”
- “giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó…”
- ngôn từ giàu chất tạo hình, từ láy cùng các biện pháp cân nhắc nhà văn đã miêu tả thể lực cường tráng, khỏe mạnh, rắn rỏi. Cách liên tả của Nguyễn Tuân liên tưởng ngoại hình của ông lái đò có dấu ấn nghề nghiệp
*Niềm say mê lao động
- Ông lái đò là một người anh hùng vô danh, bình dị thầm lặng mà quang vinh. Ông luôn tâm huyết với nghề, mãi không thay lòng, ngày ngày chèo lái, chế ngự con thuyền vượt qua sự hung hãn của sông một cách đáng hãnh diện.
- khung cảnh người lao động mới yêu nghề, tự tin, tự do làm chủ cuộc đời, chinh phục tự nhiên, sẵn lòng cống hiến, xây dựng quê hương.
*Tính cách
- Qua cách ông đấu tranh với con sông có thể thấy ông là một người có tri thức, kỹ năng.
- Ông đóng đanh tất cả dòng nước, những con thác hiểm trở, thuộc làu dòng sông…
- Nắm chắc binh pháp thần sông, thần đá…
- Có tài chỉ huy.
- Ông là người mưu trí, tài ba, có mưu lược và làm chủ cuộc đời, phong thái ung dung.
- Khi ra trận ông biểu hiện vẻ xinh xắn anh hùng vàn nghệ sĩ
- Ông bình tĩnh đưa con thuyền vào trận chiến thiên la địa võng, sẵn sàng vật lộn với con thủy quái. Lao vào chiến trường như viên tướng tả xung hữu đột,,,
- Ông lái đò là người vẻ xinh đẹp tiêu biểu yêu nghề, có ý chí làm chủ, vừa mang dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân
3) Kết bài
Người lái đò sông Đà không chỉ tả con sông Đà mà còn miêu tả vẻ xinh đẹp của người lao động. Qua đó cho thấy sự tri thức, hiểu biết của nhà văn mang lại một câu chuyện uyên bác.
Dàn ý phân tích hình tượng Người lái đò sông Đà – Mẫu 2
- Mở bài
– Nguyễn Tuân là một nhà văn tài hoa, uyên bác, luôn kiếm tìm cái đẹp. Trước cách mạng ông tìm kiếm vẻ xinh xắn trong quá khứ, khi cách mạng thành công ông tìm kiếm vẻ xinh xắn ngay trong đời sống hiện tại. Người lái đò sông Đà là tùy bút điển hình cho những sáng tác sau cách mạng của ông.
– Ông lái đò chính là chất vàng mười đã được thử lửa mà Nguyễn Tuân tìm kiếm, người anh hùng trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội. Liên hệ hình ảnh người anh hùng trong thơ ca Nguyễn Tuân trước cách mạng (Huấn Cao – Chữ người tử tù)
- Thân bài
-Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với tự nhiên hung bạo.
– Về lai lịch: tác giả xóa mờ xuất thân, tập trung mô tả ngoại hình để ngợi ca những con người vô danh âm thầm cống hiến: “tay lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, … Chất mùn”, đó là ngoại hình khỏe khoắn của con người lao động luôn gắn bó với nghề
– Là người có lòng dũng cảm, tình yêu nghề: “giữ mái chèo, nén vết thương, hai chân kẹp chặt lấy cuống lái”
– Có thể liên hệ đến khung cảnh Huấn Cao – người anh hùng trong quan niệm của Nguyễn Tuân trước cách mạng để dẫn dắt sang biểu tượng ông lái đò.
– Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo.
– Là người từng trải, kiến thức và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ … Những luồng nước”, “sông Đà đối với ông lái đò ấy như một thiên anh hùng mà ông đã thuộc … Xuống dòng”, …
– Là người mưu trí gan dạ, tinh thần kiên định và tài ba:
+ Ung dung đấu tranh với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo …” để phá trùng vi thạch trận thứ nhất,
+ Ông lái đò “không chút nghỉ tay, nghỉ mắt phá luôn vòng vây thứ hai và đổi chiến thuật, ông ”“nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác …”
+ Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc thắng lợi “con thủy quái” là chuyện thường: sau khi vượt thác nhà đò đốt lửa nướng cơm lam và toàn bàn về chuyện cá anh vũ, cá dầm xanh, …
– tổng hợp về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: là nhà văn tài hoa uyên bác, suốt đời đi tìm cái xinh đẹp, luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa, thẩm mĩ, luôn miêu tả con người trong vẻ xinh đẹp tài hoa nghệ sĩ.
- Kết bài
– Nêu cảm nhận về hình tượng nhân tố ông lái đò: là đại diện cho con người lao động Tây Bắc trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, là con người vừa có nhân cách anh hùng vừa tài hoa nghệ sĩ, hàm chứa chất vàng mười đã qua thử lửa.
– Người lái đò sông Đà là tùy bút xuất sắc miêu tả trung thực vẻ đẹp vừa hung bạo vừa trữ tình của thiên nhiên Tây Bắc, giữa nền thiên nhiên đặc sắc lên là vẻ xinh xắn của những người lao động giản dị.
Sơ đồ tư duy phân tích hình tượng người lái đò sông Đà
Mẫu phân tích hình tượng người lái đò sông Đà
Mẫu phân tích 1
Một câu chuyện lớn, có giá trị sống mãi trong lòng độc giả thì tác phẩm văn học đó phải xây dựng được những nhân tố điển hình trong tình thế điển hình, hội tụ đầy đủ khả năng thực hiện và tâm huyết của người nghệ sĩ. nhân tố ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân là một nhân tố như thế.
Dưới ngòi bút thần kì của Nguyễn Tuân, bức tranh tự nhiên sông Đà hiện lên vô cùng hung bạo, trữ tình có vị trí quan trọng làm nên một tấm phông rất phù hợp để biểu tượng người lao động ở trên núi rừng Tây Bắc nổi lên với hai phẩm chất, đó là chất anh hùng và chất nghệ sĩ mà tiêu biểu là ông lái đò rất can đảm, can đảm gần hai mươi năm chiến đấu với thác đá trong nước sông Đà để tồn tại. Tay lái của ông được mô tả là “tay lái ra hoa”.
Ông lái đò hiện lên trong những trang văn của Nguyễn Tuân đầy dấu ấn với những nét về ngoại hình đúng là một con người của sông nước: Ông gần bảy mươi tuổi nhưng rất chắc khỏe “thân hình gọn quánh như chất sừng, chất mun”, “tiếng nói ào ào như sông nước”, “hai tay dài lêu nghêu như cái sào lái đò”, “hai chân khuỳnh khuỳnh như đang kẹp chặt cái cuống lái trong tưởng tượng”… Chỉ vài nét khắc họa tài hoa mà nhà văn như chạm khắc hình tượng ông lái đò như là một anh hùng trên sông nước, vĩnh viễn đọng lại vào trái tim bạn đọc để dự báo về nhân vật cả cuộc đời gắn với nghề lái đò và mức độ tay nghề đã đạt đến mức nghệ sĩ.
Có lẽ bao tình cảm đam mê, yêu quý sông Đà của Nguyễn Tuân được gửi gắm vào nhân vật ông lái đò, nên tác giả đã để nhân tố của mình gắn bó với sông Đà đến mức máu thịt, hiểu và yêu dòng sông đến mức thuộc lòng từng tên thác tên ghềnh hơn một nghìn tên dù dễ hay khó đều hội tụ lắng đọng thành một dòng chảy trong trái tim của ông lái đò hay chính là trái tim của Nguyễn Tuân. Ông thuộc dòng sông như thuộc một “bản trường ca, thuộc đến từng dấu chấm dấu phẩy, dấu chấm than và từng đoạn xuống dòng”.
“Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước”. Chính vì thế mà ông lái đò đã khuất phục, chế ngự được sự hung bạo của dòng sông Đà. Ông không phải thần thánh mà chỉ là một người lao động bình thường bằng xương bằng thịt nhưng với trí dũng song toàn nên ông vẫn chiến thắng thiên nhiên nghiệt ngã để tồn tại lao động sáng tạo trong công cuộc xây dựng cứu giúp Đất nước.
phẩm chất của ông lái đò được cụ thể qua những cuộc giao tranh dữ dội với nước, sóng, gió và đá qua ba thạch trận. Trước hết là trùng vi thạch trận thứ nhất, người đọc đặc biệt ấn tượng với những câu văn miêu tả đá được nhân hóa như một đội quân: “đá tảng, đá hòn”…, “đá tiền vệ” đã bày ra thạch trận với năm cửa, có bốn cửa tử và một cửa sinh. Bên cạnh đó, nhà văn sử dụng một loạt động từ trùng điệp để tô đậm sức mạnh của đội quân đá: “mai phục”, “nhổm cả dậy”, “đứng ngồi nằm tùy theo sở thích”. “Ăn chết”, “canh cửa”, “hất hàm”…
Cộng hưởng với những động từ là những tính từ làm xuất sắc tính hung bạo: “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”… Tất cả làm nổi bật thế và lực của đá sông vừa đông vừa mạnh hung tợn, ghê sợ tạo thành thế không cân sức với ông lái đò chỉ có một mình đơn phương độc mã để gieo vào lòng người đọc bao phấp phỏng, hồi hộp.
Bên cạnh đá là nước, “phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá”, tạo nên âm thanh dữ dội tăng thêm không khí đối đầu ác liệt. Sóng nước biết tung ra các đòn đánh nguy hiểm như đánh giáp lá cà, đánh khuýp quật vô hồi, đá trái, thúc gối… Có thể nói Nguyễn Tuân đã rộng mở sự uyên bác lái xe hoa của mình để kho ngòi bút dồi dào sống động đầy ắp trong mọi lĩnh vực của sự sống, tuôn chảy không ngừng cả các ngôn ngữ quân sự thể thao, quân sự cũng được huy động với tần số đậm đặc để cực miêu tả đá nước sông Đà.
Đây chính là nghệ thuật vẽ mây đẩy trăng để gián tiếp tán dương chí dũng song toàn của ông lái đò. Ở chặng này, nhà văn ca ngợi ông lái đò có sức chịu đựng phi thường “ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái”… chỉ huy súc tích kín đáo và ông đã chiến thắng “phá song trùng vi thạch trận thứ nhất”.
Ở trùng vi thạch trận thứ hai, đá nước sóng tăng thêm nhiều cửa tử “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh”, “bốn năm thủy quân không ngớt khiêu khích”… Những động từ mạnh vẫn tiếp tục tuôn chảy không ngớt trên những trang văn cộng hưởng với phép tu từ so sánh giữa nhân hóa rất xuất sắc giúp nhà văn biến sóng nước thành hùm thiêng, sông nước tăng thêm sức mạnh đến đỉnh điểm của Đà giang để tiếp tục tôn lên tư thế hào hùng của ông lái đò.
Ông lái đò “không chút nghỉ tay, nghỉ mắt phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”, “ông đò nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, ông đã thuộc hết quy luật phục kích của lũ đá” nên ông chủ động tự tin nhanh nhẹn làm chủ tình thế “cưỡi lên thác sông Đà như cưỡi hổ, nắm chặt bờm sóng, ghì cương lái, phóng nhanh, chặt đôi thác để mở đường tiến”. Những động từ mạnh liên tiếp lại như đưa người đọc vào cuộc chiến của sóng nước viết trạng thái say như say sóng, để từ đó điểm nhấn lên những nét xinh xắn của ông lái đò đó là mưu trí, dũng cảm, kiên cường.
Nếu ở cuộc giao tranh thứ nhất và thứ hai Nguyễn Tuân cực tả vẻ xinh đẹp trí dũng song toàn và phẩm chất anh hùng của ông lái đò thì ở chặng thứ ba này Nguyễn Tuân muốn cho người đọc thấy tay lái ra hoa của ông lái đò. Nguyễn Tuân miêu tả “bên phải, bên trái đều là luồng chết” khiến ông lái đò phải vận dụng khả năng thực hiện nghề nghiệp của mình, nâng thuyền của mình lên mặt nước như nghệ sĩ lái mô tô bay trong không trung để “xuyên qua mặt nước”…
Những động từ mạnh “vút” hay “xuyên” lặp đi lặp lại nhấn mạnh tốc độ lái thuyền nhanh mạnh, cộng với nhiều phép cân nhắc liên tiếp khiến người đọc vừa cảm nhận được độ nhanh mạnh vừa cảm nhận được độ tinh tế của con thuyền trong hướng đi luồn lách tránh đội quân đá đông đúc. Nghệ thuật lái đò đến đây khiến độc giả hoàn toàn tâm phục, khẩu phục. Đúng là ông lái đò đã đạt đến mức nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình.
Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động trong gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang, điển hình là biểu tượng ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” với nhiều nét đẹp và cả chất nghệ sĩ trong nghề.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà – Mẫu 2
Nguyễn Tuân là một nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi đất nước hiện đại. “Người lái đò sông Đà” trích trong “Tùy bút sông Đà” (1960). Đây là kết quả chuyến đi thực tế đến với Tây Bắc năm 1958 để kiếm tìm “chất vàng” của thiên nhiên và chất vàng mười trong tâm hồn con người. Đọc tác phẩm văn học, ta bắt gặp hình ảnh sông Đà với hai nét phẩm chất hung bạo và trữ tình. Và xuất sắc bên hình tượng ấy là người lái đò gan dạ tài hoa trên sông nước.
Điểm đặc biệt đầu tiên của nhân tố này chính là không có tên gọi cụ thể mà tên của ông gắn liền với nghề nghiệp, địa điểm “ông lái đò Lai Châu”. Điều này biểu hiện, ông là đặc trưng cho vẻ xinh xắn người lái đò trên sông nước, cần mẫn. Người lái đò là một ông lão 70 tuổi. Ông đã dành một thành phần lớn cuộc đời của mình để lái đò dọc trên sông Đà. Bây giờ ông đã thôi nghề khoảng mười năm. “Trên sông ông xuôi ông ngược trên 100 lần, giữ tàu lái chính khoảng 60 lần”. Chỉ bằng vài câu súc tích giới thiệu về người lái đò, độc giả thành phần nào đã hình dung ra ngoại hình và tố chất của ông.
Ông lái đò hiện lên là người khỏe mạnh, từng trải, ngoại hình và tố chất được tạo nên bởi nét đặc thù của môi trường lao động là trên sông nước. “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh ra như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng. Giọng ông ào ào, nhỡn giới cao vòi vọi”. Nguyễn Tuân gọi con người này là “thứ vàng mười” bởi ông đã đứng trước thử thách và chiến thắng sông Đà.
Trước hết ở ông lái đò Lai Châu là người tài hoa trí dũng, có phong thái ung dung của người nghệ sĩ. Ông tài trí, từng trải, lão luyện trong nghề, đạt đến trình độ “lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của những con thác hiểm trở”. Nguyễn Tuân đã bày tỏ lòng khâm phục của mình đối với người lái đò bằng cách đối chiếu, liên tưởng ưu việt “sông Đà đối với ông lái đò như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc cả dấu câu chấm than và cả đoạn xuống dòng”. Ông thuộc rõ quy luật phục kích của đá, biết rõ cửa tử cửa sinh.
Lòng can đảm của ông được thể hiện qua ba thạch trận. Vòng một sông Đà hiện lên như một quân thù nham hiểm xảo quyệt, không chỉ sóng gió mênh mang, hút nước, thác nước mà còn bày binh bố trận “bọt tung trắng xóa cả một chân trời đá”. Đá mai phục ngàn năm bày binh bố trận những binh pháp tôn tử. Ở vòng này gồm năm cửa trận, bốn cửa tử, một cửa sinh chia thành ba tuyến tiền vệ, trung vệ và hậu vệ. kết hợp với đá và thác nước hò la vang dậy làm thanh điệp cho đá.
Đá oai phong lẫm liệt tiến lùi thách thức còn sóng nước như quân liều mạng. Nhưng ông lái đò vẫn giữ chặt mái chèo để khỏi bị hất tung ra trận địa sóng. Ông cố nén vết thương kẹp chặt cuống lái cương trực vượt qua cơn võ chiến.
Đến vòng hai, sông Đà lúc này mở ra nhiều cửa tử hơn, chỉ có một cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc thế mạnh. Bọn thủy quân cửa ải xô ra níu thuyền vào cửa tử. Ông lái đò cùng chiếc thuyền cưỡi trên con sông như cưỡi trên lưng hổ. Ông nắm chắc bờm sóng, ghì cương lái miết vào cửa sinh. Bốn năm bọn thủy quân cứ ào nước xô ra níu thuyền vào cửa tử. Dòng sông như con thú hoang lồng lên đòi ăn chết con thuyền. Nhưng ông già dằn mặt từng đứa nắm chắc quy luật của thần sông thần đá không hề nao núng, tỉnh táo, sáng tạo thay đổi chiến thuật chiến thắng sông Đà.
Bị thua ông lái đò ở hai vòng trước, trùng vi thứ ba, dòng thác càng trở nên điên cuồng dữ dội hơn. Ít cửa ra vào, bên phải bên trái đều là cửa tử, luồng sống ở giữa ngay cạnh voi đá vọng về xong ông lái đò vẫn điềm nhiên can đảm phóng thẳng thuyền. Thuyền vút vút qua cánh cổng đá để rồi chiến thắng đi qua.
Không chỉ gan dạ tài ba, người lái đò trên sông còn mang phong thái nghệ sĩ. Sau cuộc vượt thác mọi nguy hiểm như tan biến “sóng nước xèo xèo tan trong trí nhớ”. Họ lại đốt lửa nướng ống cơm lam bàn chuyện cá anh vũ, cá rồng xanh như không có gì xảy ra”. Mặc dù ngày ngày họ phải vật lộn đối mặt với hiểm nguy rình rập. Đó là vẻ đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ.
Trong quá trình tạo dựng nhân vật ông lái đò, Nguyễn Tuân chú ý miêu tả nét tài hoa của nghệ sĩ “nhân vật phải là người nghệ sĩ trong nghề nghiệp”. nhà văn chú ý tạo tình huống thử thách để nhân tố bộc lộ bản chất của mình. Sông Đà càng hung bạo bao nhiêu, người lái đò càng tài hoa dũng cảm bấy nhiêu. tác giả am hiểu nhiều ngành nghệ thuật quân sự, thể thao phối hợp với nghệ thuật mô tả tương tự liên tưởng độc đáo qua ngôn ngữ dồi dào để làm nổi bật sông Đà và người lái đò Sông Đà. Tóm lại, thành công trong phát triển nhân vật ông lái đò Lai Châu đã trở thành sức hút riêng của tác phẩm văn học trong nền văn chương nước nhà.
Mở bài hình tượng người lái đò sông Đà
Mở bài Người lái đò sông Đà học sinh giỏi – Bài mẫu 1
Nhắc về các tác giả lớn của văn học Việt Nam, đọng lại trong bạn là những ai? Phải chăng bạn ấn tượng, say mê trước những dòng thơ tình đắm say của ông hoàng thơ tình Xuân Diệu, hay xúc cảm trước ngòi bút có cái gai góc, lạnh lùng của Nam Cao khi viết về người nông dân. Có rất nhiều tác giả chọn cho mình một đề tài để sáng tác mà ta gọi đó là sở trường và trở thành dấu ấn của riêng tác giả. Trên thi đàn văn học, hiếm cây bút “tham lam” như Nguyễn Tuân. Dẫu có đọc bao nhiêu thì vẫn khiến người ta phải ồ lên trước sức sáng tạo dồi dào của ông. Bút kí “Người lái đò Sông Đà” cũng là tiếng ồ ngân vang của bạn đọc.
Mở bài Người lái đò sông Đà học sinh giỏi – Bài mẫu 2
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của văn học hiện đại Việt Nam thế kỉ XX. Trước cách mạng tháng 8 tên tuổi của ông được biết đến thông qua tác phẩm “Vang bóng một thời”, “Một chuyến đi”,…Sau cách mạng tháng 8, ông chuyển sang thể loại tùy bút và thành công nhất ở thể loại này chính là tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Tác phẩm đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc không chỉ ở hình tượng con sông Đà “hung bạo, trữ tình” mà còn bởi hình tượng người lái đò hiên ngang trên thác dữ.
Người lái đò sông Đà là một thiên tùy bút xuất sắc được in trong tập Sông Đà (1960) của Nguyễn Tuân. Đó là kết quả của nhiều dịp đi và viết về Tây Bắc trong thời kì kháng chiến chống Pháp của ông. Tác phẩm là một thiên tùy bút mang đậm phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Người nghệ sĩ tài hoa đã dùng cây bút của mình để khám phá, ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước và con người lao động Việt Nam.
Mở bài Người lái đò sông Đà học sinh giỏi – Bài mẫu 3
“Người lái đò sông Đà” là thiên tùy bút rút trong tập “Sông Đà” (1960) của Nguyễn Tuân. Đây là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi thực tế đến Tây Bắc năm 1958. Trong chuyến đi này, tác giả đã có cơ hội sống với những khoảnh khắc thân thuộc nhất, hào hứng nhất của người nghệ sĩ trong ông. Ông cảm nhận được “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của những người lao động bình dị trên miền sông nước hùng vĩ và thơ mộng. Thật đúng khi cho rằng “thiên tùy bút là bài ca về vẻ đẹp của người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”, mà điển hình, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, là hình tượng người lái đò vừa là người anh hùng, vừa là người nghệ sĩ tài ba trong nghề của mình.
Mở bài phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà – Mẫu 4
Nói đến Nguyễn Tuân là người ta nghĩ ngay đến một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp. Cái đẹp trong các tác phẩm của ông phải là cái đẹp đạt đến độ hoàn thiện, hoàn mỹ. Sự nghiệp cầm bút của Nguyễn Tuân đạt được rất nhiều thành tựu kể cả trước và sau cách mạng. “Người lái đò sông Đà” trích từ tập tùy bút “Sông Đà” là một trong những sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám.
Mở bài phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà – Mẫu 5
Tác phẩm Người lái đò sông Đà là bút ký đầy sáng tạo, tiêu biểu cho phong cách độc đáo của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng tám: Uyên bác, tài hoa, không quản gian lao vất vả để có được những dòng bút ký, đậm cảm giác chân thực, sức liên tưởng phong phú đem đến cho người đọc người nghe cảm nhận về một tâm hồn khao khát hòa nhập với nhịp động phát triển của đất nước của cuộc đời.
Kết bài hình tượng người lái đò sông Đà
Kết bài mẫu 1
Người lái đò sông Đà là một áng văn đẹp thể hiện những nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân, một nhà văn tài hoa uyên bác luôn sát cánh, khám phá, diễn tả thế giới ở phương diện văn hóa, thẩm mĩ, miêu tả con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Tác phẩm không chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ mộng của thiên nhiên Tây bắc mà còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị, anh hùng mà tài hoa của người dân lao động nơi đây. Qua đó, nhà văn Nguyễn Tuân bộc lộ tình yêu đất nước, niềm tự hào hứng khởi, gắn bó tha thiết với non sông Việt.
Kết bài phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 2
Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động trong gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang, điển hình là hình tượng ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” với nhiều nét đẹp và cả chất nghệ sĩ trong nghề.
Kết bài phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 3
Cảm ơn nhà văn Nguyễn Tuân đã cho chúng ta thưởng thức một công trình nghệ thuật đầy sáng tạo. Ngoài việc cung cấp cho chúng ta những kiến thức và tri thức về cuộc sống, về văn hóa và lịch sử địa lí, về ngôn ngữ…, tác phẩm còn là một khối kiến trúc thẩm mĩ độc đáo, giúp ta cảm thụ được cái đẹp một cách sâu sắc, cái đẹp của con người cụ thể, con người lao động Người lái đò Sông Đà. Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang.
Kết bài phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 4
Bài tùy bút của tác giả Nguyễn Tuân đã đưa người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác một cách tự nhiên đến lạ kỳ. Hình ảnh gợi ra xuyên suốt bài tùy bút là hình ảnh ông lái đò gạo cội và dòng sông Đà giang hung hãn nhưng cũng đồng thời gửi vào tâm trí độc giả một liên tưởng về một ông lái đò Nguyễn Tuân như một ông lái bậc thầy, ông lái con thuyền ngôn từ trên một dải sông văn chương không kém những thác ghềnh chông gai. Ông đã tạo nên một khúc khải hoàn ca về những con người lao động chân chính trong thời kỳ mới.
Kết bài phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 5
Người lái đò sông Đà là tác phẩm nổi bật trong kho tàng tài liệu học tập của các em học sinh. Ra đời trong những năm toàn dân ta bước vào công cuộc xây dựng Xã hội chủ nghĩa đầy sôi động, khẩn trường, khi đó cảm hứng ngợi ca, tôn vinh cuộc sống mới, con người mới ngập tràn trong các tác phẩm văn học. Không nằm ngoài xu thế chung đó, Người lái đò sông Đà với hình tượng người lái đò là một trong những hình ảnh nổi bật. Nguyễn Tuân ca ngợi người lao động bình dị, vô danh nhưng hàng ngày, hàng giờ đang cống hiến, dựng xây đất nước.
Trên đây là những gợi ý chi tiết của Trang Tài Liệu về cách lập dàn ý đề văn phân tích người lái đò sông Đà và một số bài văn mẫu tham khảo hay giúp em mở rộng vốn từ ngữ. Ngoài ra, các em có thể luyện tập thêm với những đề văn về tác phẩm Người lái đò sông Đà khác tại Hội Gia sư Đà Nẵng