Docly

Hôn quân là gì? Tìm hiểu chung về văn hoá Việt

Dưới đây sẽ giải thích ý nghĩa của từ hôn quân trong tiếng Việt của chúng ta mà có thể bạn chưa nắm được. Và giải thích cách dùng từ hôn quân trong Tiếng Việt. Bài viết dưới đây của Trang tài liệu chắc chắn bạn sẽ biết nghĩa của từ hôn quân là gì?

Hôn quân là gì?

Khái niệm: Hôn quân ý chỉ những vị vua ngu tối, không biết gì đến việc nước

Hôn quân vô đạo bậc nhất lịch sử Trung Quốc

Hoàn Nhan Lượng (24.2.1122 – 15.12.1161), tên Nữ Chân – Hoàn Nhan Địch Cổ Nãi, tự Nguyên Công ,thụy hiệu Kim Phế Đế, thường được gọi là Kim Hải Lăng vương, là vị quốc chủ thứ tư của triều đại nhà Kim trong lịch sử Trung Quốc.

Hoàn Nhan Lượng là con trai thứ hai của Liêu vương Hoàn Nhan Tông Cán- Oát Bản. Mẹ Oát Bản là Đại thị, vợ lẽ của Kim Thái Tổ. Oát Bản, về lý, là con trai trưởng của Kim Thái Tổ Hoàn Nhan A Cốt Đả. Nhưng theo quy định của tộc Nữ Chân, người không phải do vợ chính sinh ra thì không được lập tự, do vậy ngôi đích trưởng tử của Kim Thái Tổ là Hoàn Nhan Tông Tuấn.

Năm 1134, con trai trưởng của Hoàn Nhan Tông Tuấn – Hoàn Nhan Hợp Lạt lên ngôi trị vị nhà Kim, lấy hiệu là Kim Hi Tông. Điều này khiến Hoàn Nhan Lượng nuôi hận trong lòng. Ông cho rằng phụ thân mới là trưởng tử của Kim Thái Tổ, nên ngôi vua phải thuộc về mình. Nhan Lượng, từ năm 18 tuổi sớm đã ủ mưu tranh quyền đoạt vị.

Tháng 1.1150, nhân lúc trong cung có loạn, Nhan Lương cùng tâm phúc tiến vào tẩm cung giết chết Kim Hi Tông, chính thức chiếm ngôi vua. Trong năm đầu tiên trị vị nhà Kim, Nhan Lượng thực hiện hàng loạt cuộc thảm sát: tiêu diệt hơn 200 người trong tông thất, đặc biệt là con cháu dòng dõi Kim Thái Tông.

Sử gia đánh giá, Hoàn Nhan Lượng là hôn quân vô đạo bậc nhất trong lịch sử Trung Quốc bởi 12 năm ở ngôi, quốc chủ đời thứ tư nhà Kim làm tuyền việc ác: từ giết vua đoạt ngôi, sát hại đại thần, đại nghịch giết cả mẹ ruột, cướp vợ người, tiêu diệt tông thất thân thích… Tóm lại, phạm cả tam cương.

Nhưng điều vô đạo bậc nhất ở Kim Phế đế Hoàn Nhan Lượng xuất phát từ chính là thói dâm ô của ông. Theo nhiều nguồn sử liệu, Nhan Lượng là kẻ hoang dâm tới mức bệnh hoạn, cứ thấy nữ nhân xinh đẹp vừa mắt là ép quan hệ tình dục bất chấp quan hệ máu mủ.

Chuyện kể rằng, khi còn làm Tể tướng thời Kim Hi Tông, số thê thiếp của Nhan Lượng chưa tới 10 người. Vì thế, ngay khi phế Hi Tông và lên ngôi, Nhan Lượng ra sức tìm kiếm mỹ nữ cho tẩm cung của mình. Một trong những “quyết sách” nạp phi tần của Nhan Lượng là lấy chính những thê thiếp của những tông thất thân thích mà ông đã giết trong cuộc tắm máu tranh quyền đoạt vị.

“Trẫm từ khi lên ngôi đến nay đã trị tội nhiều người. Nay muốn nạp thê thiếp của chúng vào cung, liệu có nên chăng” – Nhan Lượng đã ướm hỏi tể tướng Tiêu Dụ như thế. Tiếng là hỏi nhưng thực ra là gợi ý Tiêu Dụ tấu thỉnh việc này giữa triều để có cớ mà thực hiện.

Sau vụ này, tẩm cung của Nhan Lượng đầy ắp mỹ nhân, mà đa số về lý là em dâu, chị dâu, thậm chí là cháu dâu (họ) với ông. Mỗi khi thích một nữ nhân nào đã có gia đình, Nhan Lượng lại sai người chồng mang theo gia quyến về kinh rồi bí mật bắt vợ vào cung phục vụ mình, chẳng ai dám kêu ca gì.

Năm 1152, tức khoảng 2 năm sau khi lên ngôi, Nhan Lương sai người giết Tiết độ sự Ô Đạt mà mục đích chính là chiếm lấy vợ của ông này – Đường Quái Định Ca, đưa nàng vào cung phong làm Quý phi.

Không tuần nào, tháng nào mà Nhan Lượng không tính đến chuyện nạp phi. Đáng nói, bất kể là cô dì cháu chắt, quan hệ huyết thống ra sao, miễn là có chút nhan sắc đều bị đưa vào hầu hạ Kim chủ. Nhan Lượng còn phong cho một số người chị em gái họ là phi: Con gái Tông Bổn là Quý phi, con gái Tông Vọng, cháu nội Tông Bàn làm Chiêu phi, con gái Tông Bật, Tông Bàn làm Thục phi…

Nhan Lượng còn có thói quen mỗi khi “lâm hạnh” (ân ái) với phi tần thì không để trướng rủ màn che gì cả. Mỗi lần ân ái thì ông cho nổi nhạc lên, triệu phi tần đến điện. Trên giường trải vải đệm, cho các phi tần cởi hết xiêm y, tất cả trần truồng nô đùa với nhau. Không ít lần để… lấy hứng trước cuộc mây mữa, Kim Chủ từng ép tâm phúc hoặc các quan lại giao hoan với cung tần mỹ nữ trước mặt mình.

Một kẻ hôn quân vô đạo như vậy dĩ nhiên sao thoát được quả báo. Tháng 12 năm 1161, trong cuộc giao tranh với quân Tống, Nhan Lượng bị loạn binh trong quân đội của mình dùng xích xiết cổ tới chết. Xác ông sau đó bị đốt thành than.

Ngôi Hoàng đế nước Kim thuộc về Hoàn Nhan Ung (Kim Thế Tông), em họ của Nhan Lượng. Trái ngược hoàn toàn, Kim Thế Tông Hoàn Nhan Ung là một minh quân, một chính trị gia kiệt xuất, nhiều tài đức được sử sách ca ngợi là Tiểu Nghiêu Thuấn.