Docly

Tuyển Chọn Các Bài Văn Nghị Luận Xã Hội Lớp 9 Có Lời Giải

>>> Mọi người cũng quan tâm:

Đề Cương Ôn Tập Văn 9 Kì 1 Năm 2022-2023 Có Đáp Án
Phương Pháp Giải Toán Hàm Số Bậc 2 Lớp 9 Số $y = a{x^2}$ Có Giải
Đề Cương Ôn Tập Ngữ Văn 9 HK1 Năm Học 2022-2023 Kèm Giải
Phương Pháp Giải Toán 9 Giải Bài Toán Bằng Cách Lập Phương Trình
Tổng Hợp Kiến Thức Trọng Tâm Văn 9 Theo Chuyên Đề – Ngữ Văn Lớp 9

Tuyển Chọn Các Bài Văn Nghị Luận Xã Hội Lớp 9 Có Lời Giải – Ngữ Văn Lớp 9 là tài liệu học tập được Trang Tài Liệu biên soạn và sưu tầm từ những nguồn dữ liệu mới nhất hiện nay. Tài liệu này sẽ giúp các em luyện tập, củng cố kiến thức từ đó nâng cao điểm số cho môn học. Ngoài ra, cũng giúp các thầy cô giáo có nguồn tài nguyên phong phú để giảng dạy.

Dưới đây là bản đọc trực tuyến giúp thầy cô và các em học sinh có thể nghiên cứu Online hoặc bạn có thể tải miễn phí với phiên bản word để dễ dàng in ấn cũng như học tập Offline.

TUYỂN CHỌN CÁC BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI LỚP 9

CÓ LỜI GIẢI



Đề bài: Cảm nhận của em về tình đồng đội qua truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê. Theo em, truyện ngắn và đoạn thơ gặp nhau ở điểm nào ?

Đồng đội xa

Là hớp nước uống chung

Nắm cơm về nữa

Là chia nhau một trưa nắng một chiều hôm

Chia khắp anh em mẩu tin nhà

Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp

Chia nhau nụ cười, chia nhau cái chết”

(“Giá từng thước đất” – Chính Hữu)

Nguyễn Đỗ An Khương- Lớp 9a16


Một tác phẩm văn học có sống mãi trong tấc lòng biết bao bạn đọc hay không, nếu nó không bám rễ sâu vào mảnh đất hiện thực màu mỡ, âm thầm hút lấy nguồn nhựa sống dồi dào mãnh liệt ? Một tác phẩm văn học, có trường tồn mãi với năm tháng bạt ngàn hay không, nếu nó hoàn toàn chỉ là những hiện thực méo mó, nếu nó chỉ chứa đựng những rung cảm hời hợt ? Và ắt hẳn, khi đến với “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê, với tình đồng đội gắn bó đã để lại ấn tượng đẹp trong độc giả, khẳng định sức trường tồn của mình. Có lẽ, truyện ngắn trên đã gặp gỡ ở điểm chung, về tình-đồng-

đội-giữa-năm-tháng chiến tranh, với bài thơ “Giá từng thước đất của Chính Hữu trong những câu thơ sau:

Đồng đội xa

Là hớp nước uống chung

Nắm cơm về nữa

Là chia nhau một trưa nắng một chiều hôm

Chia khắp anh em mẩu tin nhà

Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp

Chia nhau nụ cười, chia nhau cái chết”

Tiếp cận chiến tranh, miêu tả chiến tranh có nhiều cách, của nhiều người. Tuy nhiên, chiến tranh đã đi qua, cái gì từ những trang văn còn lại ? Nó có là hiện thực khốc liệt của chiến tranh, là những người lính phải hy sinh, là những dư tàn mà chiến tranh để lại cho những con người sống trên mảnh đất ấy, là bầu trời đen ngòm mùi thuốc súng gây ám ảnh cho những thế hệ ? Nó có là ca tụng những người cách mạnh đã dám hy sinh bản thân, hy sinh đất nước để đuổi theo chân lý cao cả về lẽ sống đẹp ? Nó có là sự mất mát, tang thương, nỗi dằn vặt của mỗi người lính khi rời xa chính gia đình, quê hương thân yêu của mình ? Đương nhiên rồi, nó còn là vẻ đẹp của tình đồng đội, dựa dẫm vào nhau để bươn chải những ngày sống tiếp theo, giữa ngày tháng cơ hàn, giữa nỗi thống khổ về trách nhiệm con người trong gia đình, giữa nỗi sợ hãi về cái chết, để lấp đầy những khoảng trống trong tâm hồn nhau. Và “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê ra đời để làm việc ấy, để lấp-đầy-khoảng-trống, hiện lên bức tranh đẹp về tình cảm gắn kết giữa những cô gái phá bom. Cũng cùng chủ đề ấy, Chính Hữu viết nên “Giá từng thước đất”. Ra đời giữa những năm tháng chiến tranh, hai tác phẩm gieo rắc những cảm xúc tích cực về khoảng thời gian chiến tranh ấy, khắc họa thật đẹp tình cảm keo sơn ấy.


Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê – khoảng trời của những người con gái, sợi dây tình cảm của những thiếu nữ xung phong. Tình đồng đội, đoàn kết sáng rực lên giữa bầu trời đen tối của chiến tranh. Ta cảm nhận về tình cảm của Phương Định: “Tôi moi đất, bế Nho đặt trên đùi mình”. Và cô cảm nhận: “Nó không giống que kem trắng của tôi khi nãy nữa”. Đó là Nho qua cái nhìn của Phương Định, một cái nhìn đầy xót thương, thương cảm. Nỗi đau của đồng đội hay cũng là nỗi đau của chính mình. Cô ân cần, chăm sóc chu đáo cho đồng đội. Cô mê hát lắm, nhưng giờ đây cô không hát nữa rồi hay không thể hát nữa, ngay cả khi Thao yêu cầu – “Tôi không muốn hát lúc này”. Vì sao ư ? Vì đồng đội đã đổ máu cho sự độc lập, tự do của đất nước. Cái thiêng liêng cao cả ấy nào có lời nói diễn tả được trọng vẹn. Hay liệu, vì lo lắng cho đồng đội bị thương, cô không còn tâm trạng để hát nữa. Tiếng hát là gì, và vì sao người ta lại muốn hát ? Tiếng hát tượng trưng cho niềm vui, hạnh phúc hay cũng là mong muốn được niềm vui, hạnh phúc. Điều này chắc chắn sẽ lý giải được trong trường hợp này. Phương Định chẳng còn muốn hát, vì cô buồn lắm, cô chỉ còn tâm trạng lo lắng, bất an cho đồng đội. Ở Phương Định luôn sáng ngời tình đồng đội thắm thiết. Cô luôn yêu thương trìu mến và quan tâm đến đồng đội, điều đó còn thể hiện ở những điều khac. Cô luôn yêu thương trìu mến và quan tâm đến đồng đội. Cô lo lắng cho chị Thao và Nho lên cao điểm chưa về đến về nỗi nói “như gắt vào máy” khi đại đội trưởng hỏi tình hình. Cô hiểu chị Thao và Nho như biết về những chị em ruột thịt. Đó là chị Thao sợ máu nhưng khi chiến đấu thì rất dũng cả. Trong công việc, ai cũng gờm chị bởi sự bình tĩnh, cương quyết và táo bạo. Với Nho, cô em út của tổ trinh sát thì Phương Định rất muốn bế trên tay “Trông nó nhẹ mát như một que kem trắng”. Biết bao trìu mến, yêu thương trong cái nhìn ấy. Đặc biệt cô dành tình yêu và niềm cảm phục cho tất cả những người chiến

5sĩ mà cô gặp ngày đêm trên con đường ra trận. Với cô đó là “những người đẹp nhất, thông minh, can đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân phục có ngôi sao trên mũ”. Tình đồng chí đồng đội của Phương Định thật thiêng liêng, cao cả và đáng quý! Có lẽ chính nhờ những điều này đã tiếp thêm sức mạnh cho cô để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.


Có lẽ, tình đồng đội đồng chí giữa những ngày tháng cơ hàn, vất vả trong chiến tranh là nguồn cảm hứng sáng tác vô tận cho những người nghệ sĩ. Tiếp theo dòng chảy văn học ấy, Chính Hữu viết nên những dòng thơ “Giá từng thước đất”:

Đồng đội xa

Là hớp nước uống chung

Nắm cơm về nữa

Là chia nhau một trưa nắng một chiều hôm

Chia khắp anh em mẩu tin nhà

Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp

Chia nhau nụ cười, chia nhau cái chết”

Chính Hữu định nghĩa về đồng đội, hay chính xác hơn, tình đồng đội như thế nào ? Đó là những “hớp nước uống chung”, là “năm cơm về”, là sự chia sẻ. Chia sẻ như thế nào và chia sẻ vê cái cái gì ? Đâu chỉ là chia sẻ những giá trị vật chất, chính sự chia sẻ giá trị về tinh thần mới tạo nên sự đồng đội trong tâm hồn của những con “đồng chí”. Nhà phê bình Hoài Thanh có viết: “Hầu hết những người manh ba lô lặng lẽ đi khắp nẻo đường kháng chiến trong một quyển sách nào đó thế nào cũng có ít bài thơ... Trong cuộc chiến nhân dân của của chúng ta, tiếng súng, tiếng thơ cùng hòa điệu.” Những người cầm bút lúc này sẽ là những người chiến sĩ dùng ngòi bút mà xông pha chiến trận. Họ khỏa đầy tâm hồn những con người ấy bằng các câu từ. Đối tượng mà họ viết là những người lính, và họ viết về chính những người lính ấy để nâng đỡ những người lính. Bằng vài câu thơ đẹp về tình đồng chí, về những hình ảnh được gợi mở, Chính Hữu đã thành công trong việc này


Những người lính, những cô thanh niên xung phong đã thật sự để lại trong lòng người đọc ấn tượng khó quên về tình cảm keo sơn gắn bó giữa những con người ấy. Đó đâu chỉ là nam giới, là những chàng lính, đó còn là nữ giới, là những cô thanh niên xung phong. Họ hiện lên thật đẹp bởi lý tưởng cao cả của họ, bởi tình cảm giữa những con người ấy. Hai bài thơ gặp nhau ở điểm chung ấy, về tình cảm cao cả, đáng quý họ dành cho nhau giữa những ngày tháng cơ hàn, cực khổ, giữa những năm tháng chiến tranh.


Như mặt trời sưởi ấm những ngày đông lạnh giá, như mặt trăng soi sáng cho những đêm mịt mỳ, văn chương len lỏi và thắp sáng những góc khuất trong trai tim của độc giả, những tâm hồn trơ trọi ấy đến với cõi chân-thiện-mỹ, cái cõi của nhiệm màu và hạnh phúc. Thế nên, những tác phẩm trong thời kỳ văn học cách mạng luôn lấy con người là đối tượng trung tâm, đặc biệt là những người lính, viết về họ, ca ngợi họ và củng cố tinh thần họ. Đâu chỉ có thể, đó còn là để những người đọc như chúng ta sau này cảm nhận vẻ đẹp tinh thần, vẻ đẹp của những con người ở chiến trường. Hai tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê và”Giá từng thước đất” đã hoàn thành trọn vẹn cái nhiệm vụ cao cả ấy của văn chương.








Giáo viên: Nguyễn Thị Nhuần


Email: [email protected]




Đề bài. Nếu bỏ qua chi tiết “ chiếc bóng”,theo anh (chị) tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ sẽ trở nên như thế nào? Từ đó,hãy cảm nhận về giá trị của chi tiết này trong tác phẩm.

Bài làm:



Nghệ thuật là hình thái đặc trưng,hình thành từ tìm tòi,khám phá của người nghệ sĩ về hiện thực đời sống. Nghệ thuật mang đến cái nhìn toàn diện và đầy đủ về xã hội,thể hiện những quan điểm của người nghệ sĩ ,từ đó tác động mạnh mẽ đến nhận thức,tình cảm, cảm xúc của người tiếp nhận. Chính vì vậy,nghệ thuật luôn ẩn chức sứ mệnh cao cả và thiêng liêng,góp phần làm đẹp cho cuộc đời. Ai đó đã từng nói: “ Chi tiết nghệ thuật là hạt bụi vàng của tác phẩm” .Nó có thể nhỏ bé như một hạt cát nhưng đủ để độc giả hình dung về một sa mạc mênh mông. Chi tiết nghệ thuật có thể chỉ như một giọt nước nhưng gợi được biển cả vô cùng vô tận. Chi tiết “ chiếc bóng” trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ là một chi tiết nghệ thuật đắt giá như thế.


Chuyện người con gái Nam Xương tác phẩm trích trong tập Truyền kì mạn lục một tác phẩm văn xuôi có giá trị của văn học cổ nước ta thế kỉ XVI,tập truyện văn xuôi đầu tiên viết bằng chữ Hán ở Việt Nam. Nhân vật chính là Vũ Nương,một phụ nữ đẹp người ,đẹp nết đã phải lấy cái chết để minh oan trước sự ghen tuông vô cớ của chồng mình.


Đúng như văn hào người Nga M.Go-rơ- ki từng nói: “ Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”.Chi tiết nghệ thuật là những yếu tố nhỏ lẻ của tác phẩm nhưng mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng. Sức chinh phục của hình tượng nghệ thuật là ở sự truyền cảm thì yếu tố quyết định sức truyền cảm,hấp dẫn người đọc là ở chi tiết. Nhờ có những chi tiết mà các sự việc trong cốt truyện được triển khai và phát triển hợp lí,tự nhiên. Thông qua chi tiết mà cảnh trí,tình huống,tính cách tâm trạng,hình dáng và số phận của nhân vật được khắc họa,bộc lộc đầy đủ,rõ nét. Trong một tác phẩm văn học,chi tiết là sự đặc tả cụ thể tạo nên sức hấp dẫn,chứa đựng tư tưởng nghệ thuật của nhà văn và tác phẩm. Chi tiết “ chiếc bóng” được đánh giá là chi tiết đặc sắc và đắt giá nhất,bởi nó mang ý nghĩa sâu sắc và dụng ý to lớn đối với toàn bộ thiên truyện.


Chi tiết “chiếc bóng” xuất hiện hai lần trong tác phẩm và đều ở phần giữa của thiên truyện. Cả hai lần chi tiết ấy đều gián tiếp xuất hiện trong lời nói của nhân vật bé Đản – con trai của Vũ Nương và Trương Sinh. Lần đầu là khi Trương Sinh mới trở về sau chinh chiến,nghe chàng xưng là cha,bé Đản không khỏi ngac nhiên: “ Ô hay ! Thế ra ông cũng là cha tôi ư?”. Bởi : “ Trước đây thường có một người đàn ông,đêm nào cũng đến,mẹ Đản đi cũng đi,mẹ Đản ngồi cũng ngồi,nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Lần thứ hai là khi Vũ Nương đã trẫm mình xuống dòng Hoàng Giang,khi đó một mình ngồi bên con trong đêm khuya thanh vắng,Trương Sinh vỡ òa trong đau đớn khi nhận ra chiếc bóng là điều mà bé Đản nói đến bấy lâu nay khi đứa con ngây thơ chỉ bóng chàng trên vách tường: “ Cha Đản lại đến kia kìa!”.


Là một điểm sáng thẩm mĩ của tác phẩm,chi tiết “chiếc bóng” có vị trí không thể thiếu trong sự phát triển của cốt truyện,gắn liền với bước ngoặt trong cuộc đời của Vũ Nương. Trước hết,chi tiết “ chiếc bóng” là điểm thắt nút đẩy kịch tính của câu chuyện lên cao độ trong chuỗi sự việc của tác phẩm. Nhờ đó, Nguyễn Dữ đã xây dựng được một tình huống truyện đầy ngẫu hứng nhưng lại logic,chặt chẽ và cũng rất tự nhiên. Người xưa vẫn dạy: “ Ra đường hỏi già,về nhà hỏi trẻ”. Lời nói của bé Đản vì thế càng khiến cho Trương Sinh tin tưởng không chút nghi ngờ nhiều điểm chưa rõ ràng trong đó. Nhưng quả thực bé Đản cũng không nói sai. Vấn đề nằm ở sự thiếu rõ ràng trong câu nói lại đặt vào bản tính đa nghi ,hay ghen,bảo thủ của Trương Sinh,chính điều này đã đẩy Vũ Nương vào một tình huống nghiệt ngã không lối thoát. Nếu như không có chi tiết “chiếc bóng”,có thể nói ,thật khó có thể tạo nên tình huống độc đáo và thử thách đến vậy cho nhân vật bộc lộ vẻ đẹp phẩm chất của mình.


Chi tiết “ chiếc bóng” chính là hạt nhân tích trữ nỗi oan và cũng là cơn gió mùa thu giải oan cho Vũ Nương. Lần thứ hai xuất hiện,”chiếc bóng” không lời đã giải thích cho Trương

Sinh hiểu rõ nỗi oan khuất của vợ mình. Trăm lời thanh minh của Vũ Nương,nghìn lời bênh vực của bà con hàng xóm cũng không bằng một tích tắc Trương Sinh nhìn theo tay bé Đản thấy “ chiếc bóng” trên vách tường nhà. Trương Sinh vì đa nghi ,bảo thủ và ghen tuông mù quáng mà hại chết vợ nhưng rồi bản thân chàng cũng không có được hạnh phúc,nhận ra “chiếc bóng” chính là “người cha” hằng đêm của con,chàng hiểu ra bao nhiêu cơ sự. Chàng không chỉ hiểu nỗi oan của vợ mà còn hiểu tình thương con vắng bóng cha của vợ mình,không chỉ nhận ra sai lầm của bản thân mà có lẽ chàng cũng đã tự phá vỡ hạnh phúc tròn đầy mà mình đã từng có. Chẳng cầu kí và dài dòng làm gì,chỉ một chi tiết nhỏ thôi nhưng cũng đủ để người đọc thấy được tài năng của Nguyễn Dữ,chiếc bóng kia đến một cách vô tình – nó không lời,lặng thầm mà lại phản ánh sự rủi ro,bất hạnh đầy ngẫu nhiên,phản ánh hạnh phúc mong manh của con người trong cuộc sống. Từ chi tiết này,mỗi nhân vật trong câu chuyện đều tự bộc lộ những tâm trạng,vẻ đẹp của mình. Chàng Trương sinh đa nghi,bảo thủ và mù quáng; nàng Vũ Nương bất hạnh,thiệt thòi; bé Đản ngây thơ và vô tình mất mẹ vì một sự hiểu lầm tai hại bởi chính lời nói non dại của mình.


Có thể khẳng định,chi tiết “ chiếc bóng” không chỉ có ý nghĩa sống còn với cốt truyện và tình huống truyện mà nó còn dồn nén tình cảm sâu sắc của các nhân vật. Với Vũ Nương, “chiếc bóng”chính là sự hiện hữu của tấm lòng nhớ chồng,thương con,không muốn con nhỏ thiếu thốn vắng bóng cha nên mới nói “ chiếc bóng” trên vách tường kia là cha bé Đản. Đó là lời nói dối,nhưng nó xuất phát từ tình yêu thương con tha thiết của người phụ nữ. Với bé Đản,mới ba tuổi nên còn ngây thơ và hồn nhiên,chưa hiểu hết những điều phức tạp nên đã tin về một người cha như thế,đêm nào cũng đến,hiện hữu trên vách tường nhà,dưới ngọn đèn dầu đêm khuya. Với Trương Sinh, “chiếc bóng” vừa là một bài học cay đắng,vừa cho thấy sự độc đoán và mù quáng của chàng khi chút giận lên vợ mình. Với tác phẩm,chi tiết”cái bóng” là đỉnh điểm thắt nút câu chuyện,đem lại bước ngoặt và xung đột sâu sắc cho tác phẩm.Yếu tố kịch tính càng được đẩy lên đến gay gắt và quyết liệt hơn khi Trương Sinh không chịu nói





ra.không kể lời con nói mà chỉ lấy chuyện bóng gió mắng nhiếc,đánh đuổi Vũ Nương ra khỏi nhà. Đây cũng là một tình huống giúp Nguyễn Dữ đặc tả thân phận của người phụ nữ trong xã hội xưa:


Đau đớn thay phận đàn bà,


Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.


(Trích Truyện Kiều- Nguyễn Du)


Hay như:


Thân em như giếng giữa đàng,


Người khôn rửa mặt người phàm rửa chân.


(Ca dao)



Như vậy,nỗi oan của Vũ Nương được buộc bởi chính hành động của nàng mỗi ngày,bởi lời của đứa đứa con mà nàng dứt ruột đẻ ra,và bởi sự tàn nhẫn của người chồng mà nàng hết lòng thủy chung. Nàng rơi vào bi kịch của chính “ cái bóng” của mình,hạnh phúc bao lâu nay mà Vũ Nương luôn cố gắng vun đắp, “ giữ gìn khuôn phép” đã tan thành mây khói không thể nào cứu vãn nổi. Hạnh phúc với người phụ nữ thật mong manh,ngắn ngủi,luôn có những bất trắc,rủi ro,nghịch lí vận vào cuộc đời họ,đẩy họ tới bước đường cùng.


Cũng như chi tiết “chiếc lá thường xuân” trong truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng của nhà văn O.Hen ri. “Chiếc bóng” trên vách tường là người giả , “ chiếc lá” trên tường là lá giả,nhưng hai chi tiết ở hai thiên truyện,hai cái giả ấy đã đẩy cốt truyện lên cao trào,đã đưa đến hai sự thật đối nghịch nhau: cái chết oan khuất và sự sống ý nghĩa. Con người vững lòng tin ở sự sống trong việc chờ chồng nuôi con như Vũ Nương vì “cái bóng” mà phải tìm đến cái chết; còn con người đang tuyệt vọng trong cuộc chiến với bệnh tật,đang đi dần vào cõi chết như

Giôn-xi lại tìm thấy sự sống. Hai chi tiết nghệ thuật với những quan niệm nhân sinh sâu sắc mà mỗi tác giả muốn gửi gắm,chứa đựng cảm xúc và tư tưởng đáng quý trọng.


Chiếc bóng” tạo sự bất ngờ,tính hấp dẫn của tình huống,sự chặt chẽ cho cốt truyện,tạo sự thắt nút mở nút rất hợp lí. Chi tiết này được để xuống cuối phần thứ hai của truyện,sau khi Vũ Nương không còn nữa,chuyện đau xót nhất đã xảy ra và sai lầm không thể làm lại,mâu thuẫn được đẩy lên đỉnh điểm thành bi kịch. Do đó tính tố cáo càng sâu sắc,mạnh mẽ hơn. Điều này thể hiện tài năng của Nguyễn Dữ. Như vậy,chi tiết này thể hiện rất rõ tư trưởng nhân đạo (thương xót,đồng cảm với những người phụ nữ bất hạnh,bênh vực người phụ nữ,phê phán tư tưởng trọng nam, khinh nữ,thói gia trưởng ích kỉ của những người đàn ông trong xã hội phong kiến...), đồng thời cũng cho thấy tài năng của tác giả.


Chi tiết nghệ thuật “chiếc bóng” cùng tác phẩm chuyện người con gái Nam Xương là lời tố cáo xã hội phong kiến vùi dập một người phụ nữ xinh đẹp và đức hạnh,cướp đi hạnh phúc mà đáng lí ra Vũ Nương phải được hưởng. Đồng thời,nó cũng là lời nhắc nhở mỗi chúng ta trong cuộc sống không nên vội vàng phán xét người khác khi những mối nghi ngờ diễn ra cần thẳng thắn giải quyết. Cuộc sống luôn chứa đựng những rủi ro khó lường,nên mỗi khoảnh khắc và những gì mình đang có đều đáng được người mẹ người chị trong gia đình trân trọng bởi họ là những người vun vén hạnh phúc bằng tất cả sự hi sinh thầm lặng,sự tảo tần và tình yêu thương hết mình vì cuộc sống hạnh phúc gia đình.


Mỗi tác phẩm văn học xuất sắc giống như một “tảng băng trôi”(Hê-min-uê) ôm chứa trong lòng nó biết bao giá trị tiềm ẩn. Những chi tiết đắt giá có ý nghĩa như tấm gương soi giúp người đọc nhìn thấu vẻ đẹp và giá trị tiềm ẩn đó. Và “chiếc bóng” cũng chính là một chi tiết đáng quý như vậy trong Chuyện người con gái Nam Xương. Đi qua một hành trình gần năm thế kỉ,bụi thời gian đã phủ dày lên mọi vật trên cuộc đời này,thế nhưng sức sống cùng vẻ đẹp nhân sinh mà Nguyễn Dữ đã gửi vào trang truyện thì vẫn tỏa sáng. Chuyện người con gái Nam Xương giống như một chiếc vỏ ốc nhỏ bé mong manh song lấp lánh sắc màu và từ đó

ngân lên những tiếng thì thầm của đại dương sâu thẳm,ngân lên những khúc ca về cuộc

sống,tình yêu và khát vọng muôn đời.





Giáo viên: Nguyễn Thị Hồng Quyên Đơn vị: THCS Thị Trấn Sóc Sơn (Hà Nội)


Email: [email protected]


Đề bài: Vẻ đẹp hình ảnh “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” (Đồng Chí-Chính Hữu) và “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” (Bài thơ về tiểu đội xe không kính-Phạm Tiến Duật).



Bùi Vũ Hà Chi


Lớp 9A (Năm học: 2018-2019)


Bài làm


Trong “ Bài thơ áo lính” nhà thơ Thúy Hoàng từng viết về hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ:


Chiến trường xưa nhìn lại các anh kìa Vẫn xứng đáng màu áo kia trân quý


Những đức tính lính Bác Hồ tận tụy


Vì non sông, đất nước đã quên mình.”


Chiến tranh đã lùi xa nhưng hình ảnh những người lính cụ Hồ năm xưa vẫn còn mãi với thời gian, vẫn trường tồn cùng dân tộc. Đó là những hình ảnh giản dị, chân thực mà đẹp đẽ về cuộc đời người lính- những con người ngày đêm bám trụ nơi tuyến đầu để chiến đấu và hi sinh quên mình cho đất nước. Những hình ảnh trân quý ấy đã đi vào thi ca , trở thành nguồn đề tài vô giá trong sáng tác nghệ thuật. Bắt trọn hình ảnh đẹp đẽ đó, Chính Hữu và Phạm Tiến Duật không bằng ngòi bút tô vẽ nhưng cũng đủ tái hiện hình ảnh đẹp nhất của một thời máu lửa- nơi những con người đã viết nên huyền thoại trong các tác phẩm của mình. Cả “Đồng chí” của Chính Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đều ra đời trong những thời khắc nguy nan nhưng

vẻ vang của lịch sử dân tộc đã truyền tải đến người đọc những tình cảm đồng chí, đồng đội gắn bó, đồng cảm, sẻ chia vô cùng thiêng liêng chỉ bằng “cái bắt tay” tình nghĩa “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” (Đồng chí, Chính Hữu) và “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” (Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Phạm Tiến Duật).


Những người lính trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu đã trải qua những năm tháng đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp vô cùng gian khổ, thiếu thốn nhưng họ đã sớm gần nhau, cùng sẻ chia những năm tháng khó khăn của cuộc đời người lính với một sợi dây tình cảm gắn kết vô hình. Đó chính là tình đồng chí, đồng đội, là sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân, về lí tưởng yêu nước và mục đích chiến đấu. Trước khi trở thành người lính cụ Hồ, họ chỉ là những người nông dân chân chất, mộc mạc sinh ra và lớn lên ở những miền quê nghèo khó “nước mặn đồng chua” hay “ đất cày lên sỏi đá”. Nét giống nhau ấy đã giúp tình cảm giữa họ trở nên gắn bó, yêu thương, sẻ chia một cách chân thật, giản dị, tự nhiên trong những tháng ngày gian nan nhất nơi núi rừng Việt Bắc.Chính Hữu đã trải qua, đã cảm nhận sâu sắc tình cảm ấy và tái hiện, làm sống dậy bức tượng đài tình đồng chí trên nền hiện thực khắc nghiệt, lạnh lẽo của cuộc kháng chiến vệ quốc. “Rừng hoang sương muối” trở thành nhà, thành một phần không thể thiếu trong cuộc đời của người lính. Dẫu có lạnh lẽo, hoang sơ, trăm bề thiếu thốn họ vẫn luôn giữ vững tinh thần, sẵn sàng cho cuộc chiến đấu. Nào là những chiếc áo “rách vai”, những chiếc quần có “vài mảnh vá”, “chân không giày”…giữa “anh” “tôi” vẫn hiện hữu một thứ tình cảm cao đẹp được kết tinh từ mọi xúc cảm cao độ của tình bạn: tình đồng chí. Chính sự hoang tàng nơi rừng thiêng với những cái rét cắt da cắt thịt giữa trời đêm và khó khăn trong đời sống thường ngày đã trở thành chất xúc tác làm nên chất lãng mạn hòa với tình người khiến tình cảm những người lính nông dân càng trở nên gần gũi, bền chặt. Họ cùng nhau tham gia kháng chiến, cùng nhau sẻ chia cảnh ngộ bản thân, sẻ chia những vui buồn, những gian khó, cùng sát cánh kề vai và trờ thành “tri kỉ”.





Ấm áp nhất, đẹp đẽ nhất, mang tình người nhất của tình cảm người lính chính là những cái nắm tay chân thực “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Cái nắm tay là tình thương của những người tri kỉ xuất phát từ sự thấu hiểu cho cảnh ngộ của nhau. Quê hương các anh gắn bó với hình ảnh người thân, gian nhà, ruộng nương, gốc đa, giếng nước…nhưng khi lí tưởng yêu nước trong tim đã sẵn sàng, họ cùng dứt khoát lên đường ra trận mang theo hình ảnh quê hương với bao niềm yêu nhớ. Cái nắm tay còn là những “niềm thương”“niềm tin” trong những năm tháng họ cùng nhau trải qua gian nan, khó nhọc, hiểm nguy mà họ trao gửi cho nhau. Nắm tay để cùng nhau vượt qua cơn sốt rét rừng, cùng nhau lau vầng trán đẫm mồ hôi, để cùng nhau cười trong “buốt giá”, cùng truyền nhau hơi ấm tình người. Nhà thơ Chính Hữu đã hai lần nhắc đến từ “tay” trong câu thơ mang ý ẩn dụ sâu sắc, tạo hình ảnh sóng đôi, mang lại cảm giác hòa quện chân thành, nhẹ nhàng mà sâu lắng. Câu thơ dồn nén bao xúc cảm, là kết tinh của tình cảm cao đẹp, đáng trân quý nhất chính là tình bạn và tình người. Một tình cảm tự nhiên, chân chất, hồn hậu như chính bản chất người lính nông dân; một tình cảm yêu thương nặng sâu như chính hơi thở, như máu chảy trong trái tim nhiệt thành của họ.


Phạm Tiến Duật cũng giống như Tố Hữu, ông tái hiện chân thực nhất vẻ đẹp người lính trong sáng tác của mình. Nhưng người lính trong thơ ông là những thanh niên, những sinh viên, trí thức, học sinh vừa dời mái trường. Ở họ có sự nhiệt tình, hăng hái, sôi nổi, hồn nhiên, tinh nghịch, ngang tàng của tuổi trẻ nhiều mộng mơ, hoài bão. Họ yêu nước, mang theo nhiều lí tưởng, họ gặp nhau nơi chiến trường trở thành những người lính lái xe, trở thành đồng đội. Sự gắn bó, tuổi trẻ khiến cách thể hiện tình cảm giữa họ trở nên thật trẻ trung, vô tư và ấn tượng. Sát cánh bên nhau, những người lính lái xe dọc trên con đường Trường Sơn nối lền mạch màu giao thông hai miền ung dung nhìn thẳng vào khó khăn, thử thách với bản lĩnh vững vàng, không hề run sợ. Mưa nắng, bụi bặm, đạn bom, xe hỏng hóc …có là gì khi trong họ tâm thế luôn sẵn sàng. Không còn là khung cảnh rừng khuya tĩnh mịch dưới ánh trăng chiếu soi, không phải là những cái rét cắt da cắt thịt như ở nơi núi rừng Việt Bắc mà người lính chống Pháp trong thơ Chính Hữu đã vượt qua mà những người lính lái xe trên những con đường mòn khúc khuỷu giữa núi rừng Trường Sơn, giữa tiếng ồn ã của động cơ xe, tiếng trò chuyện cười nói vui vẻ, tếu táo lúc nghỉ chân và cả những tiếng lòng của người lính. Xe không có kính, “bụi phun tóc trắng như người già”, mặt lấm, mưa hắt vào cabin ướt áo…nhưng họ không màng tới. Họ cùng nhau nghỉ chân, cùng châm điếu thuốc, cùng nhìn nhau rồi cất tiếng cười “ha ha” đầy hào sảng , xóa tan đi những nhọc nhằn, gian khổ trên con đường chông gai. Nhưng câu nói đầy dứt khoát“ừ thì” cùng từ thế “dọc đường đi tới” đầy hiên ngang đang trao gửi niềm tin hướng tới tương lai phía trước. Họ “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” đầy tinh nghịch, ngạo nghễ. Khung cửa kính đã vỡ bởi bom đạn quân thù, bởi những ngày tháng khốc liệt nơi chiến trường hiểm nguy, gió lùa qua khung kính vỡ khiến đôi mắt họ cay cay, mưa tuôn, mưa xối, bụi phun, mặt lấm...nhưng họ vẫn gửi trao hơi ấm tình đồng đội qua những cái bắt tay thân tình. Những chiếc xe vẫn bon bon trên con đường gập ghềnh, khúc khuỷu dù không kính, không đèn, không mui xe, thùng xe xước…Dường như đó lại là điều kiện thuận lợi để người lính trao gửi tình cảm cho nhau. Họ đi qua nhau, thật nhanh, thật tự nhiên họ bắt lấy bàn tay đồng đội; tuy vội vã mà chân thành, tinh nghịch, đủ để truyền cho nhau sức mạnh để cùng nhau vượt qua những tháng ngày gian khó. Đó là tình cảm sẻ chia, đồng cảm, là sự thấu hiểu và tin tưởng của những người đã luôn coi chiến trường là nhà, những bữa ăn vội cùng anh em đồng chí là bữa cơm gia đình, là tình thân. Đó là lời động viên, là lời chúc mừng thay câu nói, là cùng nhau lạc quan đi tiếp trên con đường chông gai. Họ sẽ vẫn luôn giữ vững niềm tin dù ở bất cứ hoàn cảnh nào và chính sự trẻ trung trong tâm hồn đã giúp họ dùng hơi ấm bàn tay làm cầu nối gắn kết tình cảm đồng chí, đồng đội. Cái bắt tay ấy còn thể hiện ý chí chiến đấu đến cùng trong trái tim mỗi người lính cho lí tưởng yêu nước: còn thấy nhau là còn tồn tại, còn tồn tại là còn chiến đấu. Vì thế, cái bắt tay giữa họ mang tới cảm giác rất riêng của chất lính cụ Hồ thời kháng chiến chống Mĩ: tinh nghịch, trẻ trung và rất tự nhiên, ngang tàng. Nhà thơ Phạm Tiến Duật đã nâng hình ảnh “bắt tay qua cửa kính vỡ” thành biểu tượng của tình bạn, tình đồng chí, tình người trong thời khắc gian nguy nhất.


Đồng chí” “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được viết trong hai thời điểm lịch sử khác nhau nhưng bằng nét bút giản dị, chân thực, không hoa mĩ của cả hai nhà thơ, ta lại bắt gặp những nét chung rất thân tình thông qua cái nắm tay giản dị giữa những người lính. Đó đều là cách họ biểu lộ tình cảm thương yêu, san sẻ với những người cùng chung lí tưởng yêu nước. Lòng yêu nước, sự sẵn sàng sống, chiến đấu và hi sinh đã giúp cho tình đồng chí, đồng đội cùng những cái bắt tay càng trở nên có ý nghĩa hơn, lan tỏa niềm tin, sức mạnh, động lực giúp họ cùng nhau vượt qua nghịch cảnh. Chỉ bằng cái bắt tay, hơi ấm đồng chí, đồng đội được truyền trong những người lính chống Pháp đến những năm tháng khốc liệt chống Mĩ trên tuyến đường huyết mạch Trường Sơn, tất cả đều xuất phát từ trái tim nhiệt tình cách mạng của những người lính cụ Hồ. Chính trái tim người lính ở mọi thời đã làm cháy lên ngọn lửa của hy vọng, của sức mạnh, ý chí và nghị lực, niềm tin; giúp họ tạc nên bức tượng đài nghệ thuật muôn đời. Ở họ tỏa ra ánh sáng lý tưởng cao đẹp và thiêng liêng. Các anh truyền tải điều đó qua những cái bắt tay ấm tình đồng đội đã tạo nên sức mạnh và trở thành một trong những “vũ khí” quyết định chiến thắng của quân ta.


Hai tác phẩm “Đồng chí” của Chính Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật không chỉ dừng lại ở việc khắc họa hình ảnh người lính trong những giai đoạn cam go nhất của cuộc chiến mà còn cho ta thấy được tình cảm đồng chí, đồng đội gắn bó, keo sơn, sự thấu hiểu, động viên nhau qua những cái bắt tay ấm áp tình người. Thành công của Chính Hữu và Phạm Tiến Duật đến từ cách viết chân thực, giản dị, phác họa vẻ đẹp tinh thần bên trong tâm hồn người lính đã giúp hai bài thơ đi vào lịch sử một cách hào hùng nhưng không kém phần thơ mộng.






Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy


Email: [email protected].


Bài làm của học sinh: Trần Thị Kim Tuyến. Lớp 9/1 trường THCS Phan Thúc Duyện.


Đề bài: Cảm nhận của em về đoạn kết trong bài thơ “Đồng chí”của Chính Hữu.




Bài làm:



Nếu hương thơm và sắc màu là điều quý giá nhất của một loài hoa, nếu tiếng ca và đôi cánh là điều tuyệt diệu nhất của một loài chim, nếu thành quả là điều khiến con người ta tự hào nhất của một quá trình nỗ lực thì có lẽ điều quý giá, tuyệt vời và đáng tự hào nhất của dân tộc Việt Nam bất khuất, kiên cường chính là lịch sử đấu tranh hào hùng và cao cả! Lịch sử ấy được viết nên bởi toàn dân mà đặc biệt là những những lính đêm ngày chiến đấu không ngại mỏi mệt, gian khổ. Ta cảm động bởi sự chia sẻ thân thương cùng nhau vượt qua mọi khó khăn để khắc lên tình đồng đội của những người lính ấy. Điều đó được những nhà thơ khắc họa trong những trang thơ thật sâu sắc mà cũng thật bình dị. Và nhà thơ Chính Hữu với vốn sống phong phú và sự cảm nhận tinh tế đã thể hiện sức mạnh và vẻ đẹp của tình đồng chí trong khổ cuối bài thơ “Đồng chí” viết vào năm 1948:


Đêm nay rừng hoang sương muối.


Nằm cạnh bên nhau chờ giặc tới


Đầu súng trăng treo.



Bài thơ “Đồng Chí” được nhà thơ Chính Hữu viết sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947) đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Bởi vậy bài thơ là những gì chân thực nhất xuất phát từ sự trải nghiệm của chính nhà thơ kết hợp với sự sáng tạo của mình, Chính Hữu đã để lại những vần thơ với những ấn tượng sâu sắc khó phai trong lòng người đọc. Những người lính trong “Đồng chí” là những con người có cùng xuất thân là người nông dân, có cùng lí tưởng, niềm tin và tình yêu nước mãnh liệt; họ có cùng những câu chuyện mang nỗi niềm tâm sự “ruộng nương anh gởi bạn thân cày”, “giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”; có cùng những sự khó khăn “áo anh rách vai”, “quần tôi có vài mảnh vá” và họ đã nắm tay thương lấy nhau, cùng nhau chia sẻ, đồng cảm để vượt qua bao khó khăn, thiếu thốn của cuộc chiến tranh. Đó là nguồn động lực lớn lao tiếp sức mạnh cho người lính trong những đêm gác giá lạnh:


Đêm nay rừng hoang sương muối.


Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới



Đêm nay vẫn như đêm qua và nhiều đêm khác, các anh vẫn chăm chỉ, miệt mài, vẫn dũng cảm, kiên trì đứng canh gác. Các anh không chỉ đứng canh gác trong đêm giữa chốn núi rừng trống vắng mà đêm ấy còn là một đêm sương muối, trời giá rét và lạnh lẽo vô cùng. Thế nhưng động từ “đứng cạnh”, chính nhờ “đứng cạnh bên nhau” để truyền hơi ấm cho nhau mà những người lính ấy không còn cảm thấy lạnh lẽo, không còn cảm thấy cô đơn, trống vắng mặc dù nơi học đứng là “rừng hoang”, mặc dù họ đang phải hứng chịu “sương muối”. Tất cả khó khăn, gian khổ dường như mờ nhạt trước ngọn lửa tình đồng chí ấm áp, nồng nàn mà cao đẹp, thân thương. Đó quả là một sức mạnh kì diệu, lớn lao mà sự sẻ chia giản dị của những người lính mang lại, chỉ cần “đứng cạnh bên nhau” thôi là họ có đủ sức mạnh, có đủ hơi ấm để đứng vững, để mạnh mẽ làm nhiệm vụ. Hơn thế nữa, họ còn làm nhiệm vụ với tư thế chủ động mặc dù họ đang trong tình thế bị động. Những người lính canh gác này không biết có bao nhiêu hiểm nguy đang rình rập họ, không biết rằng ít lâu nữa họ phải chiến đấu với những chiếc máy bay, những quả bom được mệnh danh là tử thần. Ấy vậy mà họ lại “chờ”, động từ “chờ”mang nghĩa chủ động, thể hiện tư thế chủ động, sẵn sàng chiến đấu với địch bất cứ lúc nào. Phải chăng đó là sự lạc quan, tinh tưởng vào đồng đội, vào bản thân với một sự kiên cường, dũng cảm của người lính và đó cũng là một nguồn động lực giúp họ trở nên mạnh mẽ chiến đấu hơn bao giờ hết, tầm vóc của họ bỗng trở nên lớn lao giữa chốn núi rừng vắng vẻ hơn bao giờ hết?


Họ không chỉ là những người lính chiến đấu mạnh mẽ, những người lính ấy không chỉ khô khan “chờ giặc tới” mà họ còn vô cùng lãng mạn dưới ánh sáng vàng của vầng trăng. Nếu trong các chùm thơ về trăng của Hồ Chí Minh “trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ” (Ngắm trăng), “trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”(Cảnh khuya) trăng là người bạn thiên nhiên gần gũi, trong sáng, là người bạn tri âm tri kỉ tâm sự, chia sẻ; nếu trăng trong “Ánh trăng” của Nguyễn Duy mang một hình tượng mới, là nhân chứng sống về sự lỗi lầm của người lính “ánh trăng im phăng phắc, đủ cho ta giật mình”thì trăng trong “Đồng chí” của Chính Hữu là sự kết hợp tinh tế giữa vầng trăng thiên nhiên và “đầu súng”, vừa gần gũi vừa mới lạ:


Đầu súng trăng treo


Đó là một hình ảnh vô cùng quen thuộc đối với những người lính. Bốn chữ “đầu súng trăng treo” làm nhịp thơ đột ngột thay đổi, dồn nén, chắc gọn, gây sự chú ý cho người đọc. Trong đêm phục kích, khi súng dắt lên vai và đầu súng chĩa lên trời vô tình chạm vầng trăng mà nhà thơ cứ ngỡ “trăng” treo “đầu súng”. Động từ “treo” đã tạo nên một mối quan hệ bất ngờ độc đáo, nối liền mặt đất với bầu trời, gợi những liên tưởng thú vị vừa hiện thực lại vừa lãng mạn. Trong đêm giá rét, rừng hoang sương muối, cái chết cận kề, tâm hồn nhạy cảm của người chiến sĩ vẫn tìm thấy chất thơ bay bổng trong vẻ đẹp của trăng.” Đầu súng” ở gần biểu tượng cho chiến tranh, hiện thực khốc liệt, “ trăng”


  • xa biểu tượng cho sự lãng mạng, màu vàng của trăng biểu tượng cho hòa bình, cuộc sống no đủ, hạnh phúc. Chính Hữu đã kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn, chiến tranh

và hòa bình, chất chiến sĩ hòa quyện chất thi sĩ tạo nên một bức tranh đẹp và vô cùng sáng tạo! Tất cả như bộc lộ và tô đậm vẻ đẹp con người của những người lính vừa lãng mạn mà cũng vừa bất khuất, đanh thép, kiên cường. Tất cả như hứa hẹn một ngày toàn thắng không xa, ngày để những người lính chiến đấu mạnh mẽ hướng tới tự do. Điều đó ẩn chứa một khát vọng lớn lao của những người lính về ngày hòa bình, độc lập.


Với giọng thơ nhẹ nhàng, tâm tình kết hợp biện pháp tu từ ẩn dụ và sự sáng tạo độc đáo, Chính Hữu đã vẽ nên một bức tranh vô cùng đẹp và phá cách khắc họa sức mạnh và vẻ đẹp của tình đồng chí. Phải là một con người có sự trải nghiệm, tài sáng tạo và sự cảm nhận sâu sắc, tinh tế thì Chính Hữu mới có thể tạo nên một hình ảnh mới lạ, độc đáo và để lại ấn tượng trong lòng người đọc về trăng và người lính như vậy. Quả là một dấu ấn mới đẹp đẽ về thơ ca cách mạng, về nguồn cảm hứng bất tận của mỗi thời đại là “trăng” vốn được ví nếu vật chất là điều dễ mất đi thì “trăng” luôn bất tử trong lòng người đọc với những giá trị về cảm hứng giàu có của nó. Từ đây ta càng thêm yêu, càng thêm tự hào và muốn ca ngợi người lính trong cuộc vệ quốc vĩ đại. Đặc biệt giá trị mà “Đồng chí” mang lại còn là nguồn cảm hứng sâu sắc đối với ý thức của tuổi trẻ về lòng tự hào dân tộc, học tập những truyền thống tốt đẹp của cha anh để từ đó cố gắng phát triển và xây dựng quê hương thêm giàu đẹp.


Nhà thơ Chính Hữu đã vô cùng thành công trong việc bộc lộ sức mạnh và vẻ đẹp của tình đồng chí trong đoạn cuối bài thơ “Đồng chí”. Hãy để tâm hồn ta rong chơi, chìm đắm, hòa quyện trong hình ảnh những người lính gác đêm giữa rừng hoang để cảm nhận sâu sắc hơn vẻ đẹp của người lính thời cứu nước. Hãy để tâm hồn ta được mở rộng và chiêm ngưỡng nhiều hơn nữa những hình ảnh đẹp về người lính, về tình đồng đội bằng cách tìm và đọc thêm nhiều tác phẩm. Và cuối cùng hãy là những con người có ích đóng góp một phần công sức của mình để giữ gìn và phát triển quê hương, đất nước mà các anh hùng đã gìn giữ thêm giàu đẹp!





Đề bài: Nhận xét về của nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ có ý kiến cho rằng: “Vũ Nương không chỉ là hiện thân của vẻ đẹp mà còn là hiện thân của số phận bị kịch”Bằng hiểu biết của em về văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương”, hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.




Giáo viên: Trần Trọng HátGmail: [email protected]


Bài làm:



Nguyễn Dữ là gương mặt nổi bật của văn học Việt Nam thế kỉ XVI. Ônglà một người học rộng, cao khiết và đặc biệt qua tâm tới tầng lớp trí thức và người phụ nữ có nhân cách và phẩm hạnh. Nhân vật Vũ Nương - nhân vật chính của truyện Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong số những những phụ nữ được nhà văn dành nhiều tâm huyết xây dựng với hình tượng tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam truyền thống có đủ tứ đức: Công - dung - ngôn - hạnh nhưng lại có cuộc đời bi thảm. Đúng như nhận định: Vũ Nương không chỉ hiện thân của vẻ đẹp mà còn là hiện thân của số phận bi kịch.”


Với tập truyện “Truyền kì mạn lục”, Nguyễn Dữ thực sự đã mang đến cho nền văn học dân tộc một “Thiên cổ kì bút” có khả năng lay động lòng người bởi giá trị mọi mặt của nó. “Chuyện người con gái Nam Xương” là thiên thứ 16 và là thiên tiêu biểu trong tập truyện này. Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, truyện thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ. Tác phẩm là một áng văn hay, thành công về nghệ thuật dựng truyên, miêu tả nhân vật, kết hợp tự sự với trữ tình.


Trước hết, Vũ Nương là hiện thân của vẻ đẹp. Sau khi giới thiệu vẻ đẹp ngoại hình của nàng, tác giả đi sâu miêu tả vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của nhân vật.Vũ Nương

được miêu tả đẹp ở ngoại hình. Mở đầu truyện, tác giả đã có lời giới thiệu bao quát về Vũ Nương “Tính đã thuỳ mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp” tạo ấn tượng về một chân dung phụ nữ hoàn hảo, vẹn toàn. Trương Sinh vì cảm mến dung hạnh ấy mà xin mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ.


Để khắc họa nhân vật Vũ Nương với vẻ đẹp phẩm chất đáng quý, nhà văn đã đặt nhân vật vào những mối quan hệ, trong các tình huống khác nhau. Ở bất cứ tình huống và mối quan hệ nào, Vũ Nương cũng sáng lên vẻ đẹp của một người phụ nữ Việt Nam tuyền thống: đảm đang và giàu tình yêu thương.


Với chồng, Vũ Nương là người vợ nết na, phụ nữ thuỷ chung. Khi mới lấy chồng: Biết chồng có tính đa nghi nên Vũ Nương cư xử đunga mực, giữ gìn khuôn phép, vợ chồng chưa từng xảy ra bất hòa. Nàng luôn giữ cho tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui. Nàng là một người vợ hiền thục, khôn khéo, nết na đúng mực! Khi tiễn chồng ra trận: Hạnh phúc êm ấm tưởng bền lâu, không ngờ đất nước xảy ra binh biến, Trương Sinh phải đầu quân ra trận ở biên ải xa xôi. Buổi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa, ngọt ngào, nồng đượm, đằm thắm, thiết tha: “ Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo đượchai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Đó là một lời dặn dò thật chân thành với ước muốn rất đỗi bình thường của một người vợ, người phụ nữ khao khát cuộc sống gia đình bình yên hạnh phúc. Ước mong cùng với lời lẽ dịu dàng ấy, chứng tỏ nàng luôn coi trọng hạnh phúc gia đình mà xem thường mọi công danh phù phiếm. Tình thương chồng của nàng còn được thể hiện qua nỗi thấu hiểu những khó khăn nơi chiến trận. Nàng cảm thông trước những nỗi vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì,khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ già lo lắng.”. Cùng với nỗi thấu hiểu của nàng là nỗi khắc khoải nhớ chồng của mình: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâmtình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng,cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Đúng là lời nói, cách nói của một người vợ hết mực thùy mị, dịu dàng. Trái tim ấy giàu lòng yêu thương, biết chịu đựng những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa, thật đáng trân trọng biết bao! Khi xa chồng, Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trông đến thổn thức “Giữ trọn tấm lòng thủy chung, son sắt”, “tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liêu tường hoa chưa hề bén gót”. Nỗi nhớ thương dài theo năm tháng “Mỗi khi thấy bướm lượn đầyvườn,mây che kín núi,thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho chính mình đêm ngày phải đối mặt với nỗi cô đơn vò võ. Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay:


"… Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu


Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong…"


(Chinh phụ ngâm)


Để thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung, thương nhớ đợi chờ chồng của nàng. Khi chồng trở về những tưởng nàng sẽ được sống hạnh phúc thì thật chớ trêu, nàng bị chồng nghi oan, hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ. Vũ Nương ra sức cứu vãn, hàn gắn. Khi người chồng trút cơn ghen bóng gió lên đầu, Vũ Nương đã ra sức thanh minh, phân trần. Nàng nói đến thân phận mình, đến tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng thuỷ chung, son sắt của mình để thuyết phục chồng “Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu.sum họp chưa thoả tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết.....” Những lời nói nhún nhường tha thiết đó cho thấy thái độ trân trọng chồng, trân trọng gia đình nhà chồng, niềm tha thiết gìn giữ gia đình nhất mực của Vũ Nương.


Đến khi được sống dưới thủy cung, Vũ Nương vẫn không nguôi nhớ cuộc sống nơi trần thế - cuộc sống nghiệt ngã đã đẩy nàng tới cái chết. Nàng vẫn là người vợ yêu chồng, người mẹ thương con, vẫn nặng lòng nỗi nhớ nhung quê hương, mộ phần cha mẹ. Đồng thời nàng vẫn khao khát được trả lại danh dự.


Với mẹ chồng Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo. Chồng vừa ra trận được một tuần thì nàng ở nhà sinh con trai. Trong những ngày tháng xa chồng, nàng đảm đang lo toan mọi công việc trong gia đình vừa chăm sóc phụng dưỡng mẹ chồng, lại nuôi dạy con thơ. Chồng xa nhà, nàng đã thay chồng phụng dưỡng mẹ chu đáo. Khi bà ốm nàng đã thuốc thang lễ bái thần phật và lấy những lời khôn khéo khuyên lơn mong vơi bớt nỗi nhớ thương con. Đến khi bà mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng như với cha mẹ đẻ của mình. Lời trăng trối của người mẹ già ấy đã đánh giá được công lao của nàng đối với gia đình: “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ lòng con như con đã chẳng phụ mẹ".


Với con, Vũ Nương là một người mẹ hiền yêu thương con hết mực. Nàng chăm sóc, bù đắp cho đứa con trai nhỏ thiếu vắng tình cha. Nàng vừa đảm đương vai trò của mẹ lại vừa đảm dương vai trò người cha đối với con. Đặc biệt, chi tiết nàng chỉ bóng mình trên vách và bảo đó là cha Đản với mục đích để con trai bớt đi cảm giác thiếu vắng tình cảm của người cha.



Bên cạnh đó, Vũ Nương còn là một người trọng nhân phẩm và tình nghĩa. Khi không phân giải được, nàng chọn cái chết để tự minh oan. Với nàng, nhân phẩm còn quan trọng hơn mạng sống. Sau khi trở về thủy cung vẫn khao khát được trả lại danh dự nên nàng đã nhờ Phan Lang nói vớí Trương Sinh lập đàn giải oan. Nàng sống trọng tình nghĩa, ở dưới Thủy cung, vẫn thương nhớ quê hương, gia đình: Ngựa Hồ gầm giá Bắc, chim Việt đậu cành Nam. Vì cảm ân đức của Linh Phi nên quyết ở lại Thủy cung, không trở về trần gian.


Vũ Nương không chỉ là một người trọng nhân phẩm và tình nghĩa mà nàng còn là là một người phụ nữ giàu lòng vị tha. Khi bị vu oan, không nói một lời trách móc chồng. Khi sống dưới thủy cung, nàng sẵn sàng tha thứ cho chồng nên nàng mới nhắn Trương Sinh lập đàn giải oan. Việc lập đàn giải oan cho vợ sẽ phần nào giúp Trương Sinh vơi đi nỗi ân hận, day dứt. Khi được chồng lập đàn giải oan ở bến Hoàng Giang, nàng hiện về cất lời cảm tạ chồng có nghĩa là nàng đã hoàn toàn tha thứ cho chồng


Nhà văn Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật một thái độ yêu mến, trân trọng qua từng trang truyện, từ đó khắc họa thành công hình tượng người phụ nữ với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp. Vũ Nương trở thành hiện thân cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam thời phong kiến.


Lẽ ra, với một người phụ nữ đẹp người đẹp nết như Vũ Nương thì nàng sẽ được hưởng một cuộc sống hạnh phúc bên gia đình. Nhưng trong truyện nhà văn lại để cho nhân vật của mình là hiện thân của số phận bi kịch. Cuộc hôn nhân gặp nhiều trắc trở: hôn nhân ko môn đănh hộ đối, không bình đẳng và là cuộc hôn nhân sắp đặt, không có tình yêu. Trương Sinh ít học lại có tính đa nghi, hay ghen tuông vô cớ nên nàng luôn phải giữ gìn khuôn phép, lựa chồng để ko xảy ra bất hòa. Hạnh phúc chưa được bao lâu, đất nước xảy ra binh biến, nàng phải chịu cảnh xa chồng, bụng mang dạ chửa, thay chồng gánh vác, lo toan mọi việc trong gia đình. Đỉnh cao của bi kịch là ngày xum họp gia đình lại là ngày chia ly: mặc dù là người phụ nữ rất mực đoan chính lại bị chính chồng mình khép vào tội không chung thủy, thất tiết khi chồng vắng nhà. Bị chồng ruồng rẫy, mắng nhiếc, đánh đuổi nàng phải kết thúc cuộc đời bằng một cái chết thể thảm. Bi kịch lớn nhất với Vũ Nương là không có quyền hành: không có quyền minh oan, không có quyền được bảo vệ nhân phẩm, không có quyền được sống bởi lẽ xã hội phong kiến bất công, trọng nam khinh nữ đã tước đi của người phụ nữ những điều đó.


Nguyên nhân trực tiếp đẩy Vũ Nương đến cái chết thê thảm như vậy là bởi vì lời nói ngây thơ của bé Đản: Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không như cha tôi trước đây chỉ nín thin thít. Nguyên nhân gián tiếp phải kể đến là do cuộc hôn nhân bất bình đẳng dẫn đến thái độ rẻ rúng của Trương Sinh đối với Nương. Cái thua thiệt đầu tiên làm nên bất hạnh của Vũ Nương là thua thiệt về vị thế. Vũ Nương “vốn con kẻ khó” còn Trương Sinh lại là “nhà giàu” đến độ khi muốn Sinh có thể xin mẹ trăm lạng vàng để cưới Vũ Nương về. Sự cách biệt giàu nghèo ấy khiến Vũ Nương sinh mặc cảm và cũng là cái thế khiến Trương Sinh có thể đối xử thô bạo, gia trưởng với nàng. Lí do tiếp theo phải kể đến là do bản tính hồ đồ ghen tuông lại hẹp hòi, tàn nhẫn của người chồng đa nghi, vũ phu. Người chồng không đủ tỉnh táo để phân tích đúng sai mà cố vin theo lời nói ngây thơ, vô tình của con để hăt hủi, ruồng rẫy vợ cho hả dạ. Và lý do quan trọng chính là Vũ Nương là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa. Nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm không chỉ là nạn nhân của chế độ phụ quyền phong kiến mà còn là nạn nhân của chiến tranh phong kiến, của cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn. Nàng lấy Trương Sinh, cuộc sống hạnh phúc,cuộc sống vợ chồng kéo dài chưa được bao lâu thì chàng phải đi lính. Vũ Nương suốt ba năm ròng phải gánh vác trọng trách gia đình, phụng dưỡng mẹ già, chăm sóc con thơ, phải sống trong nỗi nhớ chồng, thiếu vắng tình yêu thương của chồng. Và cũng chính chiến tranh đã làm xa cách, tạo điều kiện cho sự hiểu lầm trở thành nguyên nhân gây bất hạnh. Hoàn cảnh gia đình li tán, xa cách đã khiến cho thử thách niềm tin vốn đã mong manh của Trương Sinh đối với người vợ ngoan hiền của mình. Đó cũng là ngòi nổ cho thói hay ghen, đa nghi của Trương Sinh nảy nở, phát triển, dẫn đến cái chết oan uổng của Vũ Nương.



Nàng là nạn nhân của xã hội phong kiến - chế độ nam quyền - xã hội mà hôn nhân không có tình yêu và tự do. Chính xã hội ấy đã dung túng cho thói gia trưởng của đàn ông, phá tan hạnh phúc của người phụ nữ.





Nhà văn đã bày tỏ tấm lòng cảm thông, thương xót cho số phận bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Ca ngợi nhân phẩm, đức hạnh của họ, nêu cao ước mơ, khát vọng công bằng, công lý, khát vọng hạnh phúc chân chính, bình dị. Phê phán xã hội nam quyền bất công.


Như vậy, nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm đúng là hình ảnh điển hình cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam cũng là hiện thân của số phận khổ đau bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Tác giả Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật của mìnv một thái độ yêu mến, trân trọng qua từng trang truyện, từ đó khắc họa thành công hình tượng người phụ nữ với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp







Gv: Nguyễn Lý Tưởng Đơn vị: THCS Hải Thanh


Tĩnh Gia –Thanh Hóa


Gmail: [email protected]




Đề bài : Cảm nhận của em về bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh



Bài làm




Có những bài thơ khi đi qua đời ta, giản dị và mong manh, với những nhịp đập rất mực mảnh mai êm ái của trái tim, những rung động mơ hồ của cảm xúc... nhưng đã để lại trong ta một nốt nhấn cứ ngân nga, ngân nga mãi... Những nốt nhấn cảm xúc ấy đeo đẳng, ám ảnh suốt một đời, làm ta xúc động và trăn trở. Phải chăng đó là những câu thơ hay, những câu thơ đã đạt được những phẩm chất đích thực và phải chăng đó cũng chính là những day dứt băn khoăn của người nghệ sĩ suốt một đời sống chết với thơ. Đến với bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh bạn đọc sẽ có được những cảm xúc ấy.


Dẫu biết rằng thời gian bốn mùa luôn luân chuyển hết xuân đến hạ, thu sang rồi đông tới, thế nhưng ta vẫn cảm thấy ngỡ ngàng khi quên đi nhịp sống sôi động hàng ngày mà lắng nghe tiếng mùa thu đi để cảm nhận thời khắc đặc biệt bước chuyển mùa của thiên nhiên. Sang thu của Hữu Thỉnh giúp ta chiêm ngưỡng lại những giây phút giao mùa tinh tế đầy ý vị mà bấy lâu nay ta hững hờ. Đó là lúc hồn ta run lên những cảm nhận dung dị.


"Bỗng nhận ra hương ổi


Phả vào trong gió se


Sương chùng chình qua ngõ


Hình như thu đã về".




Chỉ với bốn câu thơ ngắn mở đầu, Hữu Thỉnh đã đem đến cho chúng ta những cảm nhận sâu sắc về thiên nhiên. Những tín hiệu của mùa thu với những nét phác họa tài hoa: hương ổi, gió se, sương chùng chình giản dị mà hiện lên đầy gợi cảm. Nếu như trong thơ ca cổ điển mùa thu thường hiện ra quacác hình ảnh ước lệ như “ngô đồng”, “rặng liễu”, “lá vàng mơ phai”, “hoa cúc”…thì với Hữu Thỉnh ông lại bắt đầu bằng “hương ổi”. Đó là một hỉnh ảnh, một tứ thơ khá mới mẻ với thơ ca viết về mùa thu nhưng lại vô cùng quen thuộc và gần gũi nơi vườn mẹ đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ :


"Bỗng nhận ra hương ổi


Phả vào trong gió se"



Từ “bỗng” được gieo lên trong niềm ngỡ ngàng, ngạc nhiên, một trạng thái chưa hề chuẩn bị, như là vô tình, như là sửng sốt.. Một tiếng kêu vang thích thú. Từ bao giờ thu về? Tất cả đến với tác giả nhẹ nhàng, mà đột ngột quá, thu về với đất trời quê hương, với lòng người mà không hề báo trước.Để rồi trong giây phút ngỡ ngàng ấy, nhà thơ mới chợt nhận ra hương ổi.


Vì sao lại là hương ổi mà không phải là các hương vị khác? Người ta có thể đưa vào bài thơ về mùa thu các hương vị ngọt ngào của ngô đồng, cốm xanh, hoa ngâu,… nhưng Hữu Thỉnh thì không. Giữa tiết trời cuối hạ đầu thu, ông nhận ra hương vị chua chua, ngòn ngọt của những quả ổi chín vàng ươm. Hương ổi, thứ hương thơm quê mùa, dân dã. Hương ổi không nồng nàn. Đó là thứ hương dìu dịu, nhè nhẹ. Hương vị ấy đơn sơ, mộc mạc, đồng nội, rất quen thuộc của quê hương, mùi hương riêng của mùa thu làng quê ở vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Mùi vị ấy gắn liền với bao kỉ niệm của thời thơ ấu, là mùi vị của quê hương đã thấm đẫm trong tâm tưởng nhà thơ và cứ mỗi độ thu về thì nó lại trở thành tác nhân gợi nhớ. Chính Hữu Thỉnh đã tâm sự rằng: “Giữa trởi đất mênh mang, giữa cái khoảnh khắc giao mùa kì lạ thì điều khiến cho tâm hồn tôi phải lay động, phải giật mình để nhận ra đó chính là hương ổi. Với tôi, thậm chí là với nhiều người khác không làm thơ thì mùi hương đó gợi nhớ đến tuổi ấu thơ, gợi nhớ đến buổi chiều vàng với một dòng sông thanh bình, một con đò lững lờ trôi, những đàn trâu bò no cỏ giỡn đùa nhau và những đứa trẻ ẩn hiện trong triền ổi chín ven sông…Nó giống như mùi bờ bãi, mùa con trẻ…Hương ổi tự nó xốc thẳng vào những miền thơ ấu thân thiết trong tâm hồn chúng ta. Mùi hương đơn sơ ấy lại trở thành quý giá vì nó đã trở thành chiếc chìa khóa vàng mở thẳng vào tâm hồn mỗi người, có khi là cả một thế hệ…”.Thế mà ít ai nhận ra sự hấp dẫn của nó. Bằng cảm nhận tinh tế, bằng khứu giác, thị giác, nhà thơ đã chợt nhận ra dấu hiệu của thiên nhiên khi mùa thu lại về. Chúng ta thật sự rung động trước cái “bỗng nhận ra” ấy của tác giả. Chắc hẳn nhà thơ phải gắn bó với thiên nhiên, với quê hương lắm nên mới có được sự cảm nhận tinh tế và nhạy cảm như thế!



Dấu hiệu của sự chuyển mùa còn được thể hiện qua ngọn gió se mang theo hương ổi chín.Gió se là một làn gió nhẹ, mang chút hơi lạnh, còn được gọi là gió heo may. Ngọn gió se se lạnh, se se thổi, thổi vào cảnh vật. thổi vào lòng người một cảm giác mơn man, xao xuyến.


Từ “phả” được dùng trong câu thơ mới độc đáo làm sao! "Phả" nghĩa là bốc mạnh và tỏa ra thành luồng (Từ điển Tiếng Việt - Hoàng Phê). Hữu Thỉnh đã không tả mà chỉ gợi, đem đến cho người đọc một sự liên tưởng thú vị: tại vườn tược quê nhà, những quả ổi chín vàng trên các cành cây kẽ lá tỏa ra hương thơm nức, thoang thoảng trong gió. Chỉ một chữ “phả” thôi cũng đủ gợi hương thơm như sánh lại. Sánh lại bởi hương đậm một phần, sánh bởi tại gió se. Nhận ra trong gió có hương ổi là cảm nhận tinh tế củamột người sống giữa đồng quê và nhà thơ đã đem đến cho ta một tín hiệu mùa thu dân dã mà thi vị, một nét đẹp đáng yêu của mùa thu vàng nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ.


Nhiều người đã biết: Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Băng Sơn, Nguyễn Đình Thi,... đã viết thật hay về hương cốm Vòng (Hà Nội), một nét đẹp mến yêu về hương vị mùa thu của quê hương đất nước:


Sáng mát trong như sáng năm xưa


Gió thổi mùa thu hương cốm mới...”


("Đất nước" - Nguyễn Đinh Thi)



Hương ổi’’ được hữu hình trong bài '‘Sang thu” là một cái mới trong thơ, đậm


đà màu sắc dân dã của Hữu Thỉnh.


Sau “hương ổi" và “gió se”, nhà thơ nói đến sương thu. Cũng không phải là “Sương thu lạnh... Khói thu xây thành” trong “Cảm thu tiễn thu” của Tản Đà. Cũng chẳng phải là giọt sương lạnh và tiếng thu buồn những ngày xa xưa: “Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun ” (Chinh phụ ngâm).Không phải là màn sương dày đặc, mịt mù như trong câu ca dao quen thuộc miêu tả cảnh Hồ Tây lúc ban mai “Mịt mù khói tỏa ngàn





sương”, hay như nhà thơ Quang Dũng đã viết trong bài thơ “Tây Tiến”: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” . Mà là sương thu chứa đầy tâm trạng “chùng chình” cố ý làm chậm chạp để kéo dài thời gian:


Sương chùng chình qua ngõ


Hình như thu đã về.”


Từ láy gợi hình của nghệ thuật nhân hoá,“chùng chình” như vừa tả sự khoan thai, chậm rãi của màn sương, lại vừa như tả những bước chân nhẹ nhàng của nàng Thu đang rón rén bước vào không gian. Hay sự “chùng chình” ấy cũng chính là cảm giác bâng khuâng, lưu luyến của nhà thơ khi thu tới. Ngay cả cái ngõ mà sương đang ngập ngừng đi qua ấy cũng là một ẩn dụ rất thơ, rất tinh tế. vừa là cái ngõ quê trong


thực tại, lại vừa là cửa ngõ thời gian thông giữa hai mùa. Ở đó hương trong gió, có gió trong sương, những dấu hiệu đặc trưng của mùa thu đều hiện diện. Thế nhưng, dù đã cảm nhận được mùa thu qua ba giác quan khứu giác (“hương ổi”), xúc giác (“gió se”), cả thị giác (“sương chùng chình”), tác giả vẫn chưa hết sững sờ, vẫn chưa dám tin là thu đã về nên thầm hỏi lại mình trong câu thơ cuối. Sự bâng khuâng, mơ hồ ấy được lột tả qua hai chữ “hình như”, càng tạo thêm vẻ khói sương lãng đãng lúc thu sang. Bằng những cảm nhận tinh tế và sự điêu luyện trong ngôn từ, Hữu Thỉnh đã gợi lên cảm xúc lưu luyến, bâng khuâng trong lòng người khi nhận ra thu về:


Hình như thu đã về”.


Sao lại là “Hình như” chứ không phải là “chắc chắn”? Một chút nghi hoặc, một chút bâng khuâng không thật rõ ràng. Đúng là một trạng thái cảm xúc của thời điểm chuyển giao. Thu đến nhẹ nhàng quá, mơ hồ quá. Hóa ra bức tranh kia không phải cảm nhận bằng giác quan mà bằng cả tâm hồn nữa. Đó là tâm hồn nhạy cảm của một tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống


Cả đoạn thơ không chỉ đặc sắc ở tả cảnh mà còn là sự rung rinh cảm nhận trước một cái gì đó mơ hồ, như có, như không. Ta như cảm thấy một hồn quê, một tình quê đi





về trong câu chữ làm lòng ta ấm áp. Hình ảnh quê hương như càng thêm gần gũi, yêu mến. Mùa thu lặng lẽ và nhẹ nhàng. Những hình ảnh thơ cứ vương vấn mãi trong hồn. có một cái gì thật êm, dịu dàng toát lên từ đoạn thơ ấy. Quả thực ta thấy lòng thanh thản vô cùng mà lại vô cùng nôn nao nhớ đến những miền quê xa vắng trong nắng thu khi đọc mấy câu thơ của Hữu Thỉnh.


Sau giây phút ngỡ ngàng và khe khẽ vui mừng, cảm xúc của thi sĩ tiếp tục lan tỏa, mở ra trong cái nhìn xa hơn, rộng hơn:


Sông được lúc dềnh dàng


Chim bắt đầu vội vã


Có đám mây mùa hạ


Vắt nửa mình sang thu


Bằng phép nhân hóa đặc sắc, nhà thơ đã rất tài hoa ghi lại linh hồn của cảnh vật, của dòng sông quê hương nơi vùng đồng bằng Bắc Bộ ăm ắp nước phù sa, vươn mình giữa ruộng đồng vào những ngày giao mùa. Vào mùa thu, nước sông êm đềm, nhẹ nhàng, trôi lững lờ, khoan thai chứ không chảy xiết, cuồn cuộn, dữ dội, gấp gáp như những ngày mưa lũ mùa hạ. Cái “dềnh dàng” của dòng sông kết hợp với từ “được lúc” đệm vào như gợi lên sự tranh thủ nghỉ ngơi của sông vào mùa thu. Từ ngữ ấy không chỉ gợi ra một dòng sông với vẻ đẹp êm đềm, mềm mại, thiết tha của bức tranh thiên nhiên mùa thu mà còn mang đầy tâm trạng của con người như chậm lại, như trễ nải, như ngẫm ngợi nghĩ suy về những trải nghiệm trong cuộc đời.


Phải chăng dòng sông ấy cũng chính là dòng sông từng đi vào những vần thơ tuyệt cú của Bà Huyện Thanh Quan :


Xanh om cổ thụ tròn xoe tán Trắng xóa Tràng giang phẳng lặng tờ”


(Tức cảnh chiều thu)



Tương phản với sông là sự vội vã của chim“ Chim bắt đầu vội vã”. Thu sang, khí trời se se lạnh, trên bầu trời trong xanh, cao rộng, những cánh chim vội vã bay đi về phương Nam tìm nơi trú ngụ nhưng mới chỉ là “bắt đầu” mà thôi. Chỉ một từ “ bắt đầu” thôi, Hữu Thỉnh đã thể hiện sự cảm nhận tinh tế, sâu sắc trước sự biến chuyển của thiên nhiên. Điều này càng cho thấy thời gian thu mới chớm, mới sang. Không gian trở nên xôn xao, không có âm thanh nhưng câu thơ lại gợi được cái động.


Cánh chim trong “Tràng giang” của Huy Cận cô đơn, mong manh như đang sa xuống mặt đất cùng ráng chiều “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Còn trong “Sang thu” của Hữu Thỉnh, bầu trời cũng như nhỏ lại, ấm áp hơn theo nhịp vận động “vội vàng” của cánh chim.


Hai câu thơ đối nhau rất nhịp nhàng, dựng lên hai hình ảnh đối lập, ngược chiều nhau: sông dưới mặt đất, chim trên bầu trời, sông “dềnh dàng” chậm rãi, chim “vội vã” lo lắng. Đó là sự khác biệt của vạn vật trên cao và dưới thấp trong khoảnh khắc giao mùa.


Tuy nhiên, tả mùa thu, nhà thơ không tả sắc xanh biếc của da trời mà chỉ chú ý đến một chút mây còn vương vấn không khí mùa hè:


Có đám mây mùa hạ


Vắt nửa mình sang thu”


Chỉ một áng mây bâng khuâng mà có thể thấy được cả cả bầu trời đang nhuộm sắc thu. Lối diễn đạt thật là độc đáo, giàu hình tượng. Chỉ một từ “vắt” thôi, ta có cảm giác như bầu trời được chia đôi với hai khoảng không gian của hai mùa Thu – Hạ. Và, trong đám mây mùa hạ ấy dường như phảng phất chút hơi lạnh của gió thu đang đến. Những chi tiết thực và hư cứ hoà lẫn vào nhau tạo nên một chất thơ lãng mạn đến lạ lùng.


Nhưng trong thực tế không hề có đám mây nào như thế vì mắt thường đâu dễ nhìn thấy được sự phân chia rạch ròi của đám mây mùa hạ và thu. Đó chỉ là một sự liêntưởng thú vị - một hình ảnh đầy chất thơ. Thời khắc giao mùa được sáng tạo từ một hồn thơ tinh tế, nhạy cảm, độc đáo không những mang đến cho người đọc không gian đất trời lúc sang thu mà còn đọng lại những nỗi bâng khuâng trước vẻ dịu dàng êm mát của mùa thu. Có lẽ đây là hai câu thơ hay nhất trong sự tìm tòi khám phá của Hữu


Thỉnh trong khoảnh khắc giao mùa. Nó giống như một bức tranh thu vĩnh hằng tạc bằng ngôn ngữ.


Nếu như ở khổ đầu tiên, cần có một cái ngõ thực để gợi lên ngõ thời gian thông giữa hai mùa thì ở khổ thứ hai, chỉ cần một áng mây lơ lửng cũng gợi ra được ranh giới rất nhẹ giữa hai mùa. Có cảm giác như đám mây là chiếc khăn voan đang được mùa hạ trao cho mùa thu, nó vẫn là của mùa hạ đấy, nhưng đã nhuốm sắc thu rồi. Phải rất nhạy cảm và tinh tế mới thấy được, mới sáng tạo được một hình ảnh thơ đẹp như thế ! Hữu Thỉnh đã tạo nên được những hình ảnh rất đẹp và giàu sức gợi cảm bằng cảm nhận tinh tế và sự sáng tạo của mình.


Dòng sông, cánh chim, đám mây đều được nhân hóa khiến cho bức tranh thu trở nên hữu tình, chứa chan thi vị. Cả ba hình ảnh trên là tín hiệu của mùa thu sang còn vương lại một chút gì của cuối hạ. Nhà thơ đã mở rộng tầm quan sát lên chiều cao


(chim), chiều rộng (mây) và chiều dài(dòng sông). Phải chăng có sợi tơ duyên đồng cảm giữa con người với thiên nhiên đang vào thu. Qua cách cảm nhận ấy, ta thấy Hữu Thỉnh có một hồn thơ nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết, một trí tưởng tượng bay bổng.


Vẫn còn bao nhiêu nắng


Đã vơi dần cơn mưa


Sấm cũng bớt bất ngờ


Trên hàng cây đứng tuổi”




Nắng, mưa, sấm, vốn là hiện tượng của thiên nhiên vận hành theo quy luật riêng của nó. Hữu Thỉnh đã nhìn ra từ cái mưa nắng hàng ngày một sự hụt vơi – dấu hiệu của sự chuyển mùa từ hạ sang thu.


Các từ ngữ: “vẫn còn”, “đã vơi dần”, “cũng bớt bất ngờgợi tả rất hay thời lượng và sự hiện hữu của sự vật, của thiên nhiên như nắng thu, mưa thu, tiếng sấm buổi đầu thu. Nắng vẫn còn vàng tươi nhưng nắng thu trong và dịu hơn cái nắng chói chang, gay gắt của mùa hạ. Mưa cũng vẫn còn nhưng đã vơi nhiều so với những cơn mưa bong bóng kéo dài của mùa hạ. “Vơi dần” không chỉ là ít mưa đi mà còn là mưa ít nước đi. Đây cũng là dấu hiệu của sự chuyển mùa. Hai chữ “bao nhiêu” thường hướng về một cái gì đong đếm được nhưng sắc nắng làm sao có thể cân đo? Cũng như “vơi”, dù biết vơi bớ tnhưng vơi bớt đến mức nào thì ai có khả năng xác định? Tất cả chỉ là ước lượng mà thôi, không có gì là chừng mực cố định cả. Cách nói mơ hồ của nghệ thuật khắc hẳn với khoa học ở chỗ này. Phải chú ý, phải để lòng mình bắt nhịp với thiên nhiênmới cảm nhận thấy điều đó.


Bằng nghệ thuật ẩn dụ sâu sắc, Hữu Thỉnh đã kết thúc khổ thơ qua hai câu văn thấm đẫm triết lý đáng để ta phải suy ngẫm:


Sấm cũng bớt bất ngờ


Trên hàng cây đứng tuổi”


Nhìn cảnh vật sang thu buổi giao mùa, từ ngoại cảnh ấy mà nhà thơ suy ngẫm về cuộc đời. “Sấm" và “hàng cây đứng tuổi" là những ẩn dụ tạo nên tính hàm nghĩa của bài " Sang thu”. Nắng, mưa, sấm là những biến động của thiên nhiên, còn mang ý nghĩa tượng trưng cho những thay đổi, biến đổi, những khó khăn thử thách trong cuộc đời. “Sấm là những vang động bất thường của ngoại cảnh, cuộc đời. Hàng cây đứng tuổi chỉ những con người đứng tuổi từng trải. Giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không đơn thuần chỉ là giọng kể, là sự cảm nhận mà còn là sự suy nghĩ, chiêm nghiệm về đời người. Phải chăng, mùa thu đời người là sự khép lại của những tháng ngày sôi nổi với





những bất thường của tuổi trẻ và mở ra một mùa thu mới, một không gian mới, yên tĩnh, trầm lắng, bình tâm, chín chắn…trước những chấn động của cuộc đời. Vậy là “Sang thu” đâu chỉ là sự chuyển giao của đất trời mà còn là sự chuyển giao cuộc đời mỗi con người. Hữu Thỉnh rất đỗi tinh tế, nhạy bén trong cảm nhận và liên tưởng. Chính vì vậy những vần thơ của ông có sức lay động lòng người mãnh liệt hơn.


Hữu Thỉnh viết bài thơ '‘Sang thu'" vào đầu những năm 80 của thế kỉ trước. Lúc bấy giờ, đất nước ta tuy đã được độc lập và thống nhất nhưng đang đứng trước nhiều khó khăn, thử thách mới về kinh tế, về xã hội. Hai câu kết bài thơ mang hàm nghĩa khẳng định bản lĩnh cứng cỏi và tốt đẹp của nhân dân ta trong những năm tháng gian khổ, khó khăn ấy.


Nghệ thuật nhân hóa và ẩn dụ, cách chọn lọc từ ngữ khá tinh tế là những thành công của Hữu Thỉnh để lại dấu ấn đẹp và sâu sắc trong “Sang thu”. Thơ ngũ ngôn trong "Sang thu” thể hiện một cách cảm, cách nghĩ, cách diễn đạt mới mẻ, hàm súc, lắng đọng và hồn nhiên. "Sang thu" thể hiện một bút pháp nghệ thuật thanh, nhẹ, tài hoa, diễn tả những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kì diệu của thiên nhiên trong buổi chớm thu. Đối tượng được cảm nhận là cảnh sắc mùa thu nơi đừng quê trên miền Bắc đất nước ta. Bài thơ là một tiếng lòng trang trải, gửi gắm bao tình yêu mùa thu của quê hương đất nước; một tiếng thu nồng


hậu, thiết tha.


Mác-xen Prút-xơ đã từng nói : “Thế giới được tạo lập không phải một lần, mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập.” Cũng chỉ là mùa thu thôi mà mỗi nhà thơ có một cách thể hiện thật khác biệt. Hữu Thỉnh cũng vậy, ông không chỉ cảm nhận được mùa thu đến trong từng hơi thở của đất trời mà còn truyền tải những cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến khó tả của mình đến với người đọc bằng những hình ảnh rất giàu sức gợi. Để rồi khi đọc xong bài thơ, ta chợt thấy như thu đã về trong tâm hồn mình.






Giáo viên: Nguyễn Thị Thanh Vân


Email: [email protected]


Đề bài: Viết bài văn cảm nhận về hai khổ thơ sau: (SANG THU)


Bỗng nhận ra hương ổi


Phả vào trong gió se


Sương chùng chình qua ngõ


Hình như thu đã về.


Sông được lúc dềnh dàng


Chim bắt đầu vội vã


Có đám mây mùa hạ


Vắt nửa mình sang thu.


( Hữu Thỉnh, Sang thu )


Bài làm.


Một lá ngô đồng rụng/ Thiên hạ biết thu về



Mùa thu - mùa tạo cảm hứng vô tận cho thơ ca nhạc họa, nó đi vào thơ ca như một lẽ tự nhiên. Cùng với mùa xuân, mùa thu đã trở thành mùa cổ điển trong thơ ca Việt Nam và Trung Quốc.Với các thi nhân như Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư… mùa thu lưu dấu ấn của mình trong những vần thơ đượm một vẻ riêng trong trẻo. Song đến lượt mình, rất khiêm nhường và nhỏ nhẹ, Hữu Thỉnh lại làm cho mùa thu có thêm hương sắc mới mà đặc biệt là hai khổ thơ đầu – một bức tranh giao mùa nhẹ nhàng, thơ mộng, bâng khuâng...


Hữu Thỉnh là nhà thơ chiến sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước, có nhiều đóng góp cho nền văn học hiện đại nước nhà. Thơ Hữu Thỉnh ấm áp tình người và giàu sức gợi cảm. Sang thu được ông viết năm 1977 khi đất nước vừa thống nhất được 2 năm, cũng là lúc nhà thơ đắm chìm trong sự tĩnh lặng, yên bình của làng quê, bài thơ in trong tập Từ chiến hào đến thành phố. Khổ thơ mở đầu làm rung động người đọc bởi tín hiệu báo thu về.


Bỗng nhận ra hương ổi


Phả vào trong gió se


Sương chùng chình qua ngõ


Hình như thu đã về.


Ai cũng biết, thiên nhiên ưu đãi cho mùa thu Hà Thành hương cốm mới hay mùi thơm của hương hoa sữa đẹp đến nao lòng người. Thì với Hữu Thỉnh, tín hiệu thu về nơi miền quê Bắc Bộ lại hiện ra với 3 hình ảnh thân thuộc: hương ổi, gió sesương chùng chình những hình ảnh bình dị, gần gũi vừa lạ vừa quen mang nét riêng rất Hữu Thỉnh. Phải chăng, thu đến bằng mùi hương ngọt ngào, dịu nhẹ, trong mát, nồng nàn khi trái ổi vàng tươi bắt đầu vào độ chín – dư vị dặc trưng của đồng quê Bắc Bộ. Hơn nữa, bức tranh thu còn được tô điểm bởi làn gió se - gió heo may đầu thu khô và hanh se mà chưa lạnh lẽo. Động từ phả cho thấy một sự vận động tinh tế của hương ổi, nó như đang tỏa đều, trộn lẫn, chủ động gửi mình vào gió heo may rồi lan tỏa khắp vườn thôn ngõ xóm, đến gõ cửa từng nhà. Phép nhân hóa qua hình ảnh sương chùng chình khiến sương hiện lên như một con người - một thiếu nữ duyên dáng, thướt tha - đang cố ý chậm lại bịn rịn, lưu luyến mùa hạ nồng nàn lửa cháy mà chưa muốn bước sang ngõ của mùa thu. Bởi vậy ngõ trở thành hình ảnh đa nghĩa: ngõ thực của làng quê và cũng là ngõ của thời gian. Đặc biệt, hình ảnh sương chùng chình còn gợi chuyển động rất chậm, rất khẽ tạo nên bức tranh quê thơ mộng, dịu dàng như cõi thần tiên. Phải chăng, cảnh vật giao mùa hiện lên với vẻ đẹp mong manh, mơ hồ, hư ảo khiến cảm nhận nhà thơ cũng mơ hồ. Sự mơ hồ ấy thể hiện rõ qua từ bỗng mở đầu bài thơ. Từ bỗng chất chứa sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng, thu đến như không hề hẹn trước nên anh chưa chắc chắn mà còn nghi hoặc trong lòng và bâng khuâng phỏng đoán Hình như thu đã về.


Như vậy, tín hiệu báo thu về được nhà thơ cảm nhận bằng khứu giác, thị giác, xúc giác và bằng cả tâm hồn mình. Lát cắt của khúc giao mùa hạ - thu được cảm nhận bằng những món quà quê trong sự chuyển biến rất nhẹ, rất dịu, rất êm, rất mơ hồ như một làn gió thoảng qua như gợi về kí ức của một thời tuổi thơ. Đặt trong hoàn cảnh tác giả và đất nước vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh vệ quốc được 2 năm ta mới thấy hết sự rung động và trân quý của nhà thơ trước vẻ đẹp của cuộc sống đời thường.


Tiếp theo mạch cảm xúc là vẻ đẹp của đất trời cảnh vật trong khoảnh khắc giao mùa. Nếu khổ thơ thứ nhất là sự bất chợt ngỡ ngàng trước tín hiệu báo thu về thì khổ thơ thứ hai là sự chủ động quan sát và cảm nhận cảnh chuyển mùa. Không gian thu ở khổ hai được mở rộng hơn, có chiều dài, chiều rộng và cả chiều cao.


Sông được lúc dềnh dàng


Chim bắt đầu vội vã



Dưới mặt đất là hình ảnh dòng sông trong thời khắc chuyển mùa. Phép nhân hóa được lúc khiến dòng sông như biết tranh thủ khảnh khắc giao mùa hạ - thu vô cùng ngắn ngủi. Từ láy dềnh dàng gợi hình ảnh dòng sông không hối hả, ào ạt đục ngàu chảy siết như khi mùa hạ mà nó đang lười biếng, chậm chạp êm trôi lững lờ với dòng nước xanh trong. Hình ảnh ấy khiến ta liên tưởng đến những vần thơ của nữ sĩ Xuân Quỳnh:


Tình ta như hàng cây/ Đã qua mùa bão tố


Tình ta như dòng sông/ Đã yên ngày thác lũ.



Trên bầu trời là hình ảnh những chú chim bay về phương Nam tránh rét. Từ vội gợi ta liên tưởng những cánh chim đang khẩn trương tìm về tổ ấm hay chuẩn bị cho





những chuyến di cư về phương Nam tránh rét. Nhà thơ thật nhạy cảm và tinh tế khi đã nhận ra cả sự “bắt đầu” trong những cánh chim bay. Trong khổ thơ này, hình ảnh đám mây mùa hạ là độc đáo nhất:


Có đám mây mùa hạ


Vắt nửa mình sang thu.



Hai dòng thơ đầy sáng tạo và giàu chất tạo hình giúp ta cảm nhận bầu trời như chia thành hai nửa hạ và thu.


Phép nhân hóa Vắt nửa mình gợi hình ảnh đám mây trải dài, mỏng, nhẹ như tấm khăn voan của cô thiếu nữ bỏ quên giữa bầu trời. Đám mây ấy vắt một nửa mình ở bầu trời mùa hạ, một nửa mình đã bên bầu trời mùa thu khiến nó trở thành chiếc cầu nối liền đôi bờ hạ - thu. Điều đó cũng khiến ta liên tưởng tới hình ảnh đám mây khác trong thơ Hữu Thỉnh:


Đám mây trên Việt Yên


Rủ bóng về Bố Hạ.



Như vậy, bằng những cảm nhận tinh tế và tài quan sát siêu Việt, Hữu Thỉnh cho ta cảm nhận được hạ vẫn còn đó mà thu đã chớm về rất nhẹ, rất dịu, rất êm. Cả đất trời như đang rùng mình thay áo mới trong khúc biến tấu giao mùa hạ - thu.


Với thể thơ 5 chữ, hình ảnh gần gũi giản dị và mang ý nghĩa biểu tượng, ngôn ngữ nhẹ nhàng, trong sáng gợi cảm…Đặc biệt bài thơ có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa miêu tả với chất triết lí suy tư. Điều đó giúp ta thấy được cảm nhận tinh tế của Hữu Thỉnh khi đất trời chuyển mùa từ hạ sang thu – một dáng thu mong manh trong khoảnh khắc giao mùa. Hơn nữa, thi phẩm còn khẳng định bản lĩnh của nhà thơ và của cả một thế hệ đã từng đi qua chiến tranh trước những biến thiên bất thường của cuộc sống. Vì





vậy mà “Sang thu” đã trở thành bài thơ giàu ý nghĩa và lắng đọng mãi trong lòng người đọc.


Như vậy, chỉ với mười dòng thơ, tác giả như mang đến cho người đọc một món quà thu nhẹ nhàng mà đơn sơ dân dã, bức tranh ấy đã góp thêm cho vườn thơ thu Việt Nam một hương sắc mới đậm hơi thở bình yên của cuộc sống đời thường. Đọc “Sang thu”, chúng ta như thêm yêu mến, tự hào hơn về quê hương, đất nước và con người Việt Nam, về mùa thu xứ Bắc.





-Hết-


DỰ ÁN 9: NGHỊ LUẬN VĂN HỌC


Giáo viên : Lưu Thị Bắc ( Kiều Bắc)


Đơn vị: Trường THCS Định Long- huyện Yên Định – tỉnh Thanh Hóa


Gmail: [email protected]



Đề bài 17: Vẻ đẹp của nhân vật Phương Định trong tác phẩm Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê


Mở bài


Trong đội ngũ cả dân tộc ra trận thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước có một binh chủng rất đặc biệt - Nữ thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn huyền thoại nối liền Bắc Nam.


Truyện kể rằng: em, cô gái mở đường


Để cứu con đường đêm ấy khỏi bị thương


Cho đoàn xe kịp giờ ra trận


Em đã lấy tình yêu tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa


Đánh lạc hướng quân thù hứng lấy những luồng bom (Khoảng trời hố bom – Lâm Thị Mỹ Dạ)


Lịch sử không quên ghi lại những năm tháng hào hùng ấy. Đặc biệt trong tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê đã khắc hoạ thành công hình ảnh những người chiến sĩ thanh niên xung phong mang vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất anh hùng cách mạng. Họ là những ngôi sao xa xôi trong hàng trăm nghìn những ngôi sao luôn toả sáng lấp lánh, một thứ ánh sáng không rực rỡ mà sáng trong. Ánh sáng ấy luôn soi rọi tâm hồn chúng ta, tiếp bước cho thế hệ mai sau. Những ngôi sao ấy tưởng chừng như rất xa xôi nhưng lại vô cùng gần gũi trong lòng yêu thương của mọi người. Đặc biệt hình ảnh được khắc họa rõ nhất là qua nhân vật Phương Định.


Thân bài


LĐ 1. Hoàn cảnh sống, công việc, lai lịch


* Lai lịch


Phương Định cũng như Nho và chị Thao, sinh ra và lớn lên tại vùng đất Hà Thành. Đáng lẽ, cô dễ dàng tìm cho mình một chỗ ngồi nơi giảng đường đại học, quanh cô tíu tít những bạn bè áo trắng mơ mộng. Thế nhưng theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, cô tạm gác tất cả những riêng tư để lên đường vì nghĩa lớn với tinh thần.


Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước


Mà lòng phơi phới dậy tương lai .


* Hoàn cảnh


Họ mang tinh thần ấy vào chiến trường, nơi họ sống và làm việc là trong một cái hang trên cao điểm ở một vùng trọng điểm giữa núi rừng Trường Sơn. Nơi tập trung nhiều bom đạn đánh phá ác liệt Đường bị đánh lở loét, cây bị tước cháy khô, vài cái thùng xăng méo mó, khói đen vật vờ...Chứng tỏ nơi đây vô cùng khốc liệt và hiểm nguy, họ luôn phải đối mặt với thần chết. Trong những năm tháng ấy, con đường Trường Sơn huyền thoại luôn phải oằn mình chịu sự tàn phá của bom đạn chiến tranh như vậy.


* Công việc


Trong hoàn cảnh ấy họ có cùng chung một nhiệm vụ vô cùng quan trọng : Tổ trinh sát mặt đường. Công việc cụ thể là quan sát, đánh dấu những quả bom chưa nổ, đo lượng đất đá để san lấp hố bom, và nhiệm vụ quan trọng rất nguy hiểm là phải phá những quả bom chưa nổ. Công việc của họ không tực tiếp đối mặt với kẻ thù nhưng lại đối diện với thần chết. Đó là công việc vô cùng nguy hiểm có thể hy sinh bất kì lúc nào. Đòi hỏi phải có tinh thần dũng cảm, bình tĩnh, can đảm và sẵn sàng hy sinh. Đây chính là công việc chung của thế hệ trẻ trong những năm tháng chống Mỹ cứu nước trên tuyến đường Trường Sơn.


LĐ 2. Vẻ đẹp hình thức và vẻ đẹp tâm hồn


* Vẻ đẹp hình thức


Từ hoàn cảnh sống và công việc gian khổ như vậy nhưng Phương Định luôn giữ cho mình vẻ đẹp hình thức và tâm hồn đáng khâm phục. Ấn tượng đầu tiên về Phương Định là vẻ đẹp hình thức. Cô tự giới thiệu mình là cô giá khá, có hai bím tóc dày, có cái cổ cao kiêu hãnh như đài hoa loa kèn. Còn đôi mắt nàng, đôi mắt có cái nhìn sao mà xa xăm. Cô thích ngắm mình trong gương. Chiến trường khốc liệt có thể huỷ diệt thiên nhiên làng mạc nhưng không thể đốt cháy vẻ đẹp hình thức đáng yêu và tâm hồn nhạy cảm của cô cũng như những chiến sĩ Trường Sơn. Vẻ đẹp kiêu hãnh ấy như thách thức với bom đạn, với chiến tranh.


  • Sở thích


Cô cũng như bao chiến sĩ trẻ trong những năm tháng khốc liệt ấy có sở thích chung là thích hát. Hồi ở nhà, cô hát say mê, hát ầm ĩ, làm ông bác sĩ hàng xóm phải mất ngủ. Có lần cô say sưa hát mà suýt ngã từ cửa sổ xuống lan can. Cô đem cả lòng

say mê ca hát vào trong chiến trường ác liệt. Cô hát những khúc bộ hành, bài quan họ, dân ca Ý, cô còn bịa ra cả những bài hát. Trong những năm tháng khốc liệt ấy, tiếng hát át tiếng bom, tiếng hát tiếp thêm nghị lực, sức mạnh, có niềm tin để người chiến sĩ vươn lên tất cả những gian khổ, hiểm nguy. Góp phần làm nên những chiến thắng vang dội năm châu, chấn động địa cầu. Trong bản trường ca chiến thắng của cả dân tộc không thể không kể đến tiếng hát của bộ đội chiến sĩ nơi núi rừng Trường Sơn.


  • Tâm hồn trẻ trung hồn nhiên yêu đời, hay mơ mộng


Cô vừa bước qua tuổi học trò hồn nhiên, vô tư, yêu đời, hay mơ mộng. Cô mang tâm hồn ấy vào trong chiến trường. Giữa núi rừng Trương Sơn, nơi bom đạn mù trời, khói đen vật vờ, thần kinh căng như chão, bỗng một cơn mưa đá trút xuống. Phương Định vui thích cuống cuồng như trẻ con nhận được quà chạy ra nhặt những viên đá mà niềm vui như nổ tung. Trận mưa đá như xoa dịu bớt đi sự ngột ngạt của chiến tranh. Mưa tạnh, cô tiếc nuối và tất cả những kỷ niệm lại ùa về: Cô nhớ về mẹ, nhớ những ngôi sao trên bầu trời, nhớ con đường, vòm cây, nhớ cả tiếng giao của bà bán xôi sáng...Tất cả như liều thuốc tinh thần động viên, an ủi cô vượt qua những thử thách nơi bom rơi đạn nổ.


LĐ 3. Vẻ đẹp phẩm chất anh hùng cách mạng


  • Tinh thần tự giác có trách nhiệm cao trong công việc


Giản dị lắm mà anh hùng lắm chứ! các cô tiêu thư Hà Nội ấy! Các cô gái từng làm nũng mẹ, từng gào to gọi mẹ chỉ vì chồng sách vở trên bàn không biết cách nào xếp cho nó gọn. Và mẹ phải cằn nhằn: Con gái con nứa gì mày, lấy chồng rồi cũng no đòn” Thế mà hôm nay, con gái mẹ đã trở thành chiến sĩ gan dạ kiên cường, luôn có tinh thần trách nhiệm cao với quê hương, đất nước.


Nơi chiến trường ác liệt ấy, các cô luôn tự bảo ban phân công để hoàn thành tốt nhiệm vụ: san lấp hố bom, đặc biệt là phá bom “Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến





măm lần, ngày nào ít ba lần. Chúng tôi có nghĩ đến cái chết, một cái chết mờ nhạt, không cụ thể, còn cái chính là liệu mìn có nổ, bom có nổ không?” Tinh thần trách nhiệm cao cả ấy không riêng gì ba cô gái mà là tinh thần chung của cả thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Bởi họ đều mang trong mình dòng máu con Lạc cháu Hồng sẽ sẵn sàng nhất tề đứng lên vì Tổ quốc.


* Sự gan dạ, dũng cảm, kiên cường, bất khuất và sẵn sàng hy sinh


Một ngày trên tuyến đường Trường Sơn máu lửa, tác giả chỉ ghi lại một lần phá bom trong hàng trăm ngìn lần mà Phương Định cũng như bao chiến sĩ đã trải qua. Sự vắng lặng, cây cối xơ xác, khói đen vật vờ. Thần chết là một tay không thích đùa, hắn ta lẫn trong ruột những quả bom. Quả bom ấy có thể nổ bây giờ hoặc nổ bất kì khi nào. Cô cũng sợ, nên lúc đầu cô phải đi khom nhưng rồi cô nghĩ các anh cao xạ không thích mình đi khom thế nên cô lấy hết can đảm để đàng hoang mà bước tới. Chỉ bằng chúng ấy chi tết người đọc đã hình dung ra sự ngột ngạt của chiến trường như bóp nghẹt trái tim. Thật đáng sợ khi phải làm cái việc chọc giận thần chết. Các cô phải ra tay trước nó, phải tiêu diệt nó. Thử hỏi nếu không có sự gan dạ, dũng cảm, kiên cường và sẵn sàng hy sinh liệu các cô ấy có vượt qua được những thử thách ấy không?


Những trang sử Trường Sơn không thể quên ghi một ngày như thế. Chúng ta tự hào về những người chiến sĩ như Phương Định và đồng đội của cô. Có biết bao người bị bom vùi mà không phải bị thương xoàng như Nho. Họ vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường. May mắn có người được trở về quê hương thì tuổi xuân đã hết, họ sống trong gieo neo, lay lắt.


  • Tinh thần đồng chí đồng đội, đoàn kết, gắn bó yêu thương nhau


Họ là những người xa lạ đến từ mọi miền của Tổ quốc nhưng họ gắn bó yêu thương nhau như trong gia đình. Phương Định tỏ ra kiêu, đứng từ xa ngắm nhìn mà không vồn vã chạy đến nói chuyện như người khác khi có anh bộ đội nói giỏi nào đấy

đi qua. Nhưng thực ra cô rất trân trọng và cảm phục những người chiến sĩ trực tiếp chiến đấu ngoài chiến trường. Trong suy nghĩ của cô, những người đẹp nhất, can đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân phục có ngôi sao trên mũ.


Khi chị Thao lên cao điểm chưa về Phương Định lo lắng đến mức gắt cả anh đại đội trưởng trong điện thoại. Nho bị thương, Phương Định và chị Thao lo lắng chăm sóc cho Nho tận tình chu đáo. Vậy đấy, tinh thần đồng chí đồng đội của những người chiến sĩ thật thiêng liêng cao cả. Nó như sợi dây vô hình lấp lánh xuyên suốt thời gian. Dù chỉ là cái nắm tay truyền cho nhau hơi ấm vượt qua những thử thách khắc nghiệt, dù chỉ là chung bát, chung đũa nơi núi rừng Trường Sơn nhưng tất cả làm nên một sức mạnh phi thường để có chiến thắng vẻ vang như ngày hôm nay.


Đất nước mình nhân hậu


Có nước trời xoa dịu vết thương đau


Em nằm dưới đất sâu


Như khoảng trời nằm yên trong đất


Đêm đêm, tâm hồn em tỏa sáng


Những vì sao ngời chói, lung linh.


(Khoảng trời hố bom – Lâm Thị Mỹ Dạ)


* Liên hệ cuộc sống


Càng tự hào và biết ơn thế hệ đi trước đã đổ máu cho đất nước để chúng ta được sống trong hoà bình. Nhiệm vụ của chúng ta ngày hôm nay không còn phải đối mặt với thần chết nhưng cũng không kém phần nặng nề. Vì vậy chúng ta cần làm chủ được tương lai của mình, kế thừa và phát huy được những vẻ đẹp của các lớp lớp cha anh. Ngay từ bây giờ, hãy chuẩn bị cho mình một hành trang vững trãi để bước đi trên con đường mới.






Kết bài


Chị em tôi toả nắng vàng lịch sử


Nắng cho đời và nắng cũng cho thơ.


(Huy Cận)


Đường Trường Sơn, nơi thử thách ý chí, khí phách của con người Việt nam. Chính những con người như Phương Đinh, Nho, Chị Thao - “những bông hoa trên tuyến lửa”-đã làm nên một bài ca tuyệt vời. Sức trẻ, lòng yêu nước, khát vọng hoà bình đã tạo nên một bản anh hùng ca bất diệt vang mãi đến mai sau.


( Nguồn trich : Cẩm nang ôn thi vào 10 – Tác giả Kiều Bắc)














Giáo viên: Nguyễn Thị Thảo


Email: [email protected]



Đề Bài : Cảm nhận về tình đồng chí, đồng đội qua bài thơ “ Đồng chí” của Chính Hữu.




Viết về người lính và chiến tranh nhưng văn thơ hiện đại Việt Nam không đi sâu khai thác những khó khăn gian khổ, những mất mát đau thương của những người lính mà chủ yếu hướng ngòi bút của mình khai thác vẻ đẹp của người lính trên nhiều bình diện, đặc biệt là tình đồng chí đồng đội của những người lính cách mạng. Bài thơ “Đồng Chí” Chính Hữu đã có những đõng góp không nhỏ vào đề tài trên. Bài thơ được viết năm 1948, giai đoạn đầu của cuộc kc chống Pháp khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến dịch Việt Bắc 1947. bài thơ cho thấy sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội và sự gắn bó keo sơn, bền chặt của họ.


Tình đồng chí, đồng đội được hình thành trong sự cùng chung nhiệm vụ, chung lý tưởng, sống có nhau. Hai câu thơ mở đầu bằng giọng thơ thủ thỉ tâm tình, lời thơ mộc mạc tự nhiên, với cấu trúc song hành “Quê anh” “Làng tôi”, tác giả làm hiện lên gương mặt người chiến sĩ, họ như đang tâm sự với nhau :


Quê hương anh nước mặn đồng chua


Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá



Chúng ta đều là những người nông dân chân đất, áo nâu, lần đầu tiên mặc áo lính. Thành ngữ “Nước mặn đồng chua”, hình ảnh gợi cảm “Đất cày lên sỏi đá” cho ta biết hoàn cảnh của những người lính. Người ở vùng chiêm chũng ven biển đất nhiễm mặn, người


  • vùng trung du đất bạc màu khó làm ăn, “Đất không nuôi nổi người, người không nuôi nổi đất”( CLV). Tuy khác nhau về địa giới nhưng cùng chung cảnh ngộ, chung nguồn gốc xuất thân từ những người nông dân nghèo lam lũ. Theo tiếng gọi của tổ quôc, họ


cùng chung một chiến hào đánh Mĩ và trở thành những người lính cách mạng. Hình ảnh của họ giúp ta liên tưởng tới người nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa : “ Chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ. việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm, tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó”. Trước khi vào quân ngũ, họ vốn là những người xa lạ chưa hề quen nhau :


Anh với tôi đôi người xa lạ


Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.



Đúng vậy những người lính đó mỗi người một quê, cách nhau cả một phương trời, đất đai canh tác phong tục tập quán khác nhau, họ hoàn toàn xa lạ với nhau:



Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ


Gặp nhau từ hồi chua biết chữ


Quen nhau từ thuẩ một hai


Sung bắn chua quen, quân sự mươi bài



Nhưng vì sao họ “Chẳng hẹn” lại “Quen nhau” như vậy ? Những người lính đó ra đi, rời bở quê hương không phải vì cái nghèo xô đẩy, cũng không vì một lời hò hẹn nào. Mà đó là sự hò hẹn từ bên trong, nơi đỉnh cao của tấm lòng yêu nước: chiến đấu bảo vệ dộc lập tự do của tổ quốc nên họ từ “xa lạ”, chẳng hẹn lại “ gặp nhau” , “quen nhau” :


Súng bên sung, đầu sát bên đầu


Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ



Câu thơ sử dụng nhiều hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng “Súng” là biểu tượng cho nhiệm vụ, mục đích chiến đấu. “Đầu” biểu tượng cho ý chí, tình cảm yêu quê hương đất nước. Điệp từ “Bên” gợi ra mối quan hệ khăng khít của những con người chung tình cảm yêu quê hương đất nước, chung ý chí, mục đích, nhiệm vụ, cho nên họ đã chung một chiên hào đánh Pháp . Trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến gian khổ, tình cảm của họ càng được củng cố, phát triển và ngày càng gắn bó trong sự chan hòa chia sẻ mọi gian lao của cuộc đời người lính : “ Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”, “Đôi tri kỉ” là đôi bạn thân thiết gắn bó sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi từ “hớp nước uống chung”, “bát cơm sẻ nửa” đến “ Thương nhau chia củ sắn lùi” …


Cũng chính từ trong gian khổ đó tình cảm của họn càng được tôi luyện, phát triển trở nên thắm thiết và kết tinh thành thứ tình cảm đẹp đẽ nhất, thiêng liêng nhất, tinh hoa nhất trong tình cảm con người, đó là “Tình đồng chí, đồng đội ”, được tác giả diễn tả độc đáo bằng câu thơ cuối đoạn. Câu thơ được rút ngắn đột ngột với câu trúc





đặc biệt gồm hai tiếng và một dấu chấm than: “ĐỒNG CHÍ”, như buộc người đọc phải dừng lại nghĩ suy về ý nghĩa hai tiếng đó gợi ra, hai tiếng vừa quen, vừa lạ, mang bao ý nghĩa đứng giữa bài thơ. Nói như Nguyễn Đức Quyền “ Nó như cái lưng ong thắt lại, tạo cho bài thơ một kết cấu mới lạ, một kết câu chính luận trong thơ”, và dấu chấm than đi kèm chất chứa bao tình cảm trừu mến thân thương. Đây là sự dồn nén tình cảm của những câu thơ trước nó, để mở ra những câu thơ sau . Nó như tiếng gọi kiêu hãnh, một nốt nhấn trong bản đàn làm sáng ngời chủ đề của bài thơ . Có thể nói, với 7 câu thơ ngắn gọn, tác giả khắc họa chân thực hình ảnh người lính cách mạng và cơ sở hình thành tình đồng chí : Chung cảnh ngộ, chung nguồn gốc xuất thân, chung mục đích lí tưởng chiến đấu, chung tình yêu quê hương đất nước, cho nên nó bền vững và có sức mạnh to lớn.


Nhờ có tình đồng chí mà những người lính sẵn sang cảm thông chia sẻ những điều thầm kín nhất ở hậu phương, để họ hiểu nhau, thương nhau hơn . Đó là quê hương còn nhiều đói nghèo vất vả :


Ruộng nương anh gửi ban thân cày


Gian nhà không mặc kệ gió lung lay



Câu thơ không bộc lộ cảm xúc trực tiếp, nhưng đọc lên ta thấy nặng trữu tình cảm yêu thương. Theo tiếng gọi của tổ quốc , người lính ra đi chiến đấu, bỏ lại đằng sau là quê hương còn nhiều đói nghèo vất vả : Nhà neo người, ruộng nương không người cày cấy phải “gửi bạn thân cày”, cuộc sống nhiều thiếu thốn “Gian nhà không mặc kệ gió lung lay” . Chữ “Không” ở đây dùng rất gợi, nó vừa đủ để diễn tả cái nghèo, vừa gợi tả được sự trống trải của lòng người ở lại. Nhưng người lính vẫn dứt áo ra đi , Từ “Mặc kệ” đã thể hiện được vẻ đẹp tinh thần của người lính. Họ sẵn sàng gạt bỏ mọi nỗi niềm riêng tư để quyết tâm ra đi chiến đấu vì lí tưởng . Câu thơ gợi nhớ đến hình ảnh người lính trong bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi :


Người ra đi đầu không ngoảnh lại


Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy


Hay những câu thơ của Phạm Tiến Duật:


Anh lên xe trời đổ cơn mưa


Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ


Anh xuống núi nắng về rực rỡ


Cái nhành cây gạt mối riêng tư



Đặc biệt là nỗi nhớ người thân và gia đình. Đó là sự nhớ thương da diết, sự trông ngóng mỏi mòn của những người vợ, người mẹ và những đứa con thơ ngày đem bên cối gạo


Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Hình ảnh hoán dụ “Giếng nước” , “Gốc đa” gợi ta nhớ tới nơi hội tụ, hò hẹn, nơi diễn ra những kỉ niệm một thời gắn bó với quê hương.


Chữ “Nhớ” trong nghệ thuật nhân hóa đã tô đậm được sự thương nhớ người thân đối với người ra lính, hay chính tấm lòng người lính không nguôi nhớ quê hương, đã tạo ra cho giếng nước gốc đa một tâm hồn.


Người lính còn chia sẻ với nhau cả những gian lao thiếu thốn ngoài chiến trường để vượt qua mọi khó khăn :


Anh với tôi biết từng cơn ớn lanh


Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi


Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá


Miệng cười buôt giá chân không giày





Nếu như trước đây trong bài thơ “Ngày về”, hình ảnh người lính trong thơ Chính Hữu vẫn còn mang dáng vẻ của kẻ chinh phu, mang đậm chất ước lệ, thi vị hóa


Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dăm


Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa



Thì đến bài thơ này bằng những hình ảnh chân thực cụ thể, lướt nhanh dồn dập trên những câu thơ sóng đôi liên tiếp, đã tái hiện được biết bao khó khăn của cuộc đời người lính trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ : Đó là những cơn sốt rét rừng quái ác hành hạ, không có thuốc men chạy chữa, khiến họ bị viêm gan, viêm lá lách, da vàng, tóc rụng. Nhà thơ Quang Dũng trong bài thơ “Tây tiến” xúc động viết : “Tây tiến đoàn binh không mọc tóc” , còn Tố Hữu trong bài “Cá nước” là : “Giọt giọt mồ hôi rơi trên má anh vàng nghệ”. “Aó rách”, “quần vá” cũng là hiện thực người lính phải chịu đựng lúc bấy giờ. Người lính phải mặc những bộ quần áo nâu từ đồng ruộng ra chiến trường, chẳng mấy bị rách nát, lúc đầu họ còn có chỉ để khâu, sau chỉ hết họ phải lấy dây rừng buộc túm lại. Nhân dân đã gọi các anh bằng cái tên xúc động yêu thương


Vệ túm” , “Vệ nâu”, “miệng cười buốt giá, chân không giày” cũng là thực, họ là những


người lính “Áo vải chân không đi lùng giặc đánh”



Nhưng vẻ đẹp của họ được tỏa sáng chính là từ trong khó khăn gian khổ họ vẫn tràn đầy tinh thần lạc quan “ Miệng cười buốt giá”, một nụ cười ngạo nghễ bất chấp gian khổ hiểm nguy, bởi họ có hơi ấm của tình đồng chí đồng đội tiếp thêm sức mạnh : “ Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Câu thơ có chủ ngữ ẩn, “Thương nhau” được đặt lên đầu câu thơ. Nhịp thơ lắng lại trong sự xúc động, đã diễn tả một chi tiết giản dị, một cử chỉ thân thiết yêu thương của những người lính vừa phải trải qua bao gian khổ, mất mát hi sinh. Một biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí đồng đội. Cái nắm tay không ồn ào vồn vã : “tay bắt mặt mừng”mà lắng xuống ở độ sâu cảm xúc. Bàn tay nói lời im lặng của

sự đoàn kết gắn bó, sự cảm thông chia sẻ, và sự hứa hẹn lập công. Bàn tay ấm nóng tình người, sưởi ấm cho nhau trong buốt giá “Nắm bàn tay mà ấm cả bàn chân. Biết bao tình cảm không lời chứa đựng trong cái nắm tay ấy. Điều đáng chú ý ở đây là chữ “anh” luôn luôn đặt trước chữ “tôi”. Người chiến sĩ luôn luôn nhìn bạn, nói về bạn trước khi nói về mình. Cách nói ấy đã thể hiện vẻ đẹp trong tâm hồn người lính “Thương người như thể thương thân”. Các câu thơ thể hiện nét mới trong cách biểu hiện của Chính Hữu : Khai thác vẻ đẹp và chất thơ trong cái bình dị đời thường. Các hình ảnh chi tiết đưa vào thơ, không hề tô vẽ nhưng lại có sức gợi lớn. Vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí đồng đội được tỏa sáng trên nền tảng ấy.


Ba câu thơ cuối một biểu tượng đẹp, kết tinh của tình đồng chí:


Đêm nay rừng hoang sương muối


Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới


Đầu súng trăng treo



Ba câu thơ cuối như dựng lên tượng đài sừng sững về tình đồng chí của những người chiến sĩ, trên cái nền hùng vĩ, khắc nghiệt của thiên nhiên : “Đêm” , “Rừng hoang”, “Sương muối”. Nhưng tình đồng chí đã sưởi ấm họ, giúp họ vượt qua khó khăn khắc nghiệt của thời tiết: “ Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Câu thơ không có chủ ngữ nhưng ta có thể hiểu đó là những người lính đang làm nhiệm vụ, họ đứng cạnh bên nhau trong một chiến hào, chủ động chờ đón đánh địch, trong một không gian thơ mộng . Chính nơi sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc này, lại là nơi tôi luyện thử thách tình cảm và phẩm chất cao đẹp của họ.


Trong đêm phục kích giặc giữa rừng, người lính còn có người bạn nữa là vầng trăng, trăng trôi trên nền trời, trăng như treo trên đầu súng “Đầu súng trăng treo”. Câu thơ vừa mang tính hiện thực, giàu tính lãng mạn vừa nên thơ, đã khái quát được vẻ đẹp của cuộc





đời người chiến sĩ . Hiện thực là bởi trong đêm người lính đứng gác, mũi súng chếch lên trăng ngả xuống bìa rừng, trong cảm giác của con người trăng như treo ở đầu súng. Lãng mạn, nên thơ là bởi, súng và trăng cũng tạo nên một cặp đồng chí, tô đậm vẻ đẹp của cặp đồng chí kia . Súng là biểu tượng cho nhiệm vụ chiến đấu, trăng là biểu tượng của cuộc sống hòa bình. Người lính cầm súng chiến đấu để bảo vệ vầng trăng hòa bình. Ba hình ảnh : Súng- trăng- người lính, gắn bó hòa quện, tôn lên vẻ đẹp của nhau. Sự hòa hợp giữa súng và trăng, vừa toát lên vẻ đẹp tâm hồn người lính, vừa nói lên được ý nghĩa cao đẹp của cuộc chiến tranh yêu nước. Người lính trong thời kì gian khổ ấy đã vượt lên một tầm cao mới, trong tư thế làm chủ thiên nhiên, bầu bạn với thiên nhiên. Bức tranh kết lại trong một hình ảnh đẹp: có cái gần - có xa, có cái lạnh lẽo của thời tiết


  • có cái ấm cúng của tình người, có cái căng thẳng của chiến tranh - có cái êm ả của tâm hồn, vừa có tình cảm chân thực của chiến sĩ, vừa có chất lãng mạn thi sĩ. Đây là ý thơ tâm đắc nhắt của nhà thơ, vì vậy ông đã lấy dòng thơ cuối này làm nhan đề cho cả tập


thơ viết về người lính.



Đã hơn 70 năm trôi qua, nhưng bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu vẫn có một vị trí vững vàng trong thơ ca kháng chiến, và trong lòng mỗi người đọc, bởi lẽ bài thơ ngắn, nhưng có tính khái quát cao, có giá trị sâu sắc, không những tái hiện được hoàn cảnh chiến đấu mà còn thể hiện được tình đồng chí đồng đội thiêng gắn bó của những người lình cách mạng tron kháng chiến chống Pháp - người anh hùng áo vải thời đại HCM. Bài thơ là một bức tượng đài chiến sĩ tráng lệ sẽ bât tử cùng thời gian .







Giáo viên: Nguyễn Thị Thơm






Email: [email protected]


Đề bài: Nhận xét về “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” có ý kiến cho rằng:


Phạm Tiến Duật đã sáng tạo được một hình ảnh thơ độc đáo, qua đó làm nổi bật chân


dung người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn năm xưa”. Suy nghĩ của em về ý


kiến trên?


Bài làm



Có những tác phẩm người đọc quên ngay sau khi gấp lại những trang sách. Nhưng cũng có những tác phẩm theo dòng thời gian cứ lưu giữ mãi trong tâm hồn độc giả, bồi đắp cho chúng ta những tình cảm cao đẹp ở đời. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là một bài thơ như thế. Đến với tác phẩm, mỗi người đọc thật sự ấn tượng về hình ảnh những chiếc xe không kính và vẻ đẹp của những người lính lái xe Trường Sơn, tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mỹ cứu nước. Nhận xét về bài thơ, có ý kiến cho rằng: “ Phạm Tiến Duật đã sáng tạo được một hình ảnh thơ độc đáo, qua đó làm nổi bật chân dung người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn năm xưa.”


Bài thơ về tiểu đội xe không kính” ra đời năm 1969, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra vô cùng ác liệt, với bẩy khổ thơ tự do, không gò bó về vần điệu, ngôn ngữ đậm chất văn xuôi, Phạm Tiến Duật đã sáng tạo được một hình tượng thơ độc đáo mang hơi thở nóng hổi của chiến tranh: hình tượng những chiếc xe không kính băng băng trên đường ra trận, đồng thời làm nổi bật chân dung tinh thần của người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn thời đánh Mỹ.


Hình tượng thơ độc đáo được Phạm Tiến Duật sáng tạo trong bài thơ là hình tượng những chiếc xe không kính. Từng có mặt trên tuyến đường Trường Sơn thời chống Mỹ, Phạm Tiến Duật đã từng tận mắt chứng kiến những chiếc xe không kính băng băng trên đường ra trận. Chính hình ảnh những chiếc xe không kính, tiểu đội xe không kính đã khơi nguồn cảm hứng cho nhà thơ. Bằng một giọng thơ vừa như đối thoại, vừa như phân bua, gây sự chú ý, mở đầu nhà thơ viết:


Không có kính không phải vì xe không có kính


Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.



Ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày, chắc khỏe như tác phong người lính. Từ ngữ phủ định “không” lặp lại ba lần, chuyển sang ý khẳng định: những chiếc xe không kính vốn không phải là một chủng loại riêng, không phải là thiết kế của những nhà sản xuất. Vậy vì sao? Bất thường này được giải thích một cách rất thản nhiên:


Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”



Câu thơ là lời lí giải nguyên nhân làm cho những chiếc xe không kính. Điệp từ “bom”, kết hợp với các động từ mạnh “giật”, “rung” cho thấy sự ác liệt của chiến trường ngững năm chống Mỹ. Thì ra cuộc chiến tranh thời kì 1969- 1970 đã làm cho những chiếc xe vận tải biến dạng. Giặc Mỹ tàn bạo muốn cô lập miền Nam, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc đã trút bom xuống những cánh rừng Trường Sơn, nhằm cắt đứt huyết mạch giao thông duy nhất nối liền hai miền Nam- Bắc.


Hình ảnh những chiếc xe không kính xuyên suốt bài thơ. Và còn được hiện lên cụ thể hơn, trần trụi hơn, sự hỏng hóc của nó không thể tả xiết:


Không có kính rồi xe không có đèn


Không có mui xe thùng xe có xước



Vẫn là phép điệp ngữ quen thuộc lặp từ “không có”, kết hợp với phép liệt kê tăng cấp: “không có kính”, “không có đèn”, “không có mui”, “có xước” cho thấy sự hỏng hóc càng tăng theo cấp số nhân, đó là quy luật tất yếu của sự huỷ diệt mà đế quốc muốn đem tới Việt

Nam. Tuy nhiên dường như càng ác liệt thì những chiếc xe càng hiên ngang, dũng cảm ra trận. Giọng điệu bình thản, lời thơ đậm chất văn xuôi, cái chất thực bề bộn, ngổn ngang của chiến trường đã tự nó phát sáng . Vẻ đẹp lãng mạn, thơ mộng làm cho những chiếc xe khôg kính trở nên độc đáo trong thơ Phạm Tiến Duật.


Có thể thấy với vốn sống phong phú, cái nhìn tinh tế, tâm hồn thơ nhạy cảm, Phạm Tiến Duật đã chọn lọc được nhiều hình ảnh giàu sức biểu hiện nhất để sáng tạo nên hình tượng thơ độc đáo- những chiếc xe không kính băng mình ra mặt trận trên chiến trường đánh Mỹ. Đó là những hình ảnh vốn không lạ, không hiếm, nhưng cái hay


  • cái mới mẻ ở đây là “xe không kính”, có ý nghĩa thực chứ không mang ý nghĩa biểu


tượng. Vì thế, đọc thơ Phạm Tiến Duật ta có cảm giác như đang đi thẳng vào giữa cuộc chiến, đến nơi nóng bỏng nhất, trọng điểm ác liệt nhất, gặp những con người quả cảm nhất.


Bài thơ không chỉ hấp dẫn người đọc bằng hình tượng thơ độc đáo mà thông qua hình tượng độc đáo ấy nhà thơ đã làm nổi bật chân dung người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn năm xưa. Trước hết người đọc cảm phục tư thế ung dung, bình thản, hiên ngang, điềm tĩnh đến lạ kì của người lính lái xe qua hai câu thơ cuối khổ 1:


Ung dung buồng lái ta ngồi


Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng



Với giọng thơ bình thản, nhẹ nhàng, kết hợp từ láy tượng hình “ung dung” được đảo lên đầu câu thơ có tác dụng nhấn mạnh, gợi tư thế đàng hoàng, bình thản, chủ động của người lính lái xe. Ngồi trên ca bin những chiếc xe không kính là họ đã tự chọn làm mục tiêu nguy hiểm nhất, sẵn sàng dính bom đạn kẻ thù, vậy mà họ vẫn “ung dung”, nghĩa là không lo, không sợ, không run. Điệp từ “nhìn”, kết hợp phép liệt kê đã miêu tả sự quan sát thật cẩn thận, bình tĩnh của một tay lái làm chủ tuyến đường, làm chủ tình huống. Người lính lái xe “nhìn đất” để quan sát đường đi đầy gập ghềnh hiểm trở, “nhìn trời” để quan sát máy bay địch”, “nhìn thẳng” về phía trước gợi tư thế chủ động thẳng tiến ra chiến trường đầy gian khổ, hi sinh nhưng không hề run sợ mà vững vàng, tự tin.


Theo mạch cảm xúc của bài thơ, người lính lái xe còn hiện lên với vẻ đẹp tâm hồn đáng mến, trẻ trung, lãng mạn, biến những khó khăn gian khổ thành sự hưởng thụ thú vị. Không còn kính, nghĩa là không còn giới hạn với nguy hiểm nhưng cũng chẳng còn khoảng cách với thiên nhiên. Thế nên:


Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng


Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim


Thấy sao trời và đột ngột cánh chim


Như sa như ùa vào buồm lái



Nhịp thơ nhanh dồn dập như gợi ra những bước tiến ào ào băng mình của đoàn xe vận tải. Vẫn là phép điệp ngữ quen thuộc qua động từ “nhìn thấy” như tạo một nút nhấn, nhấn mạnh tư thế chủ động mở ra những tầm nhìn bao quát của người lính lái xe. Trên những chiếc xe ấy, những người lính được tiếp xúc với đất trời, cỏ cây, chim thú. Xe bon bon với tốc độ nhanh, gió xoa dịu không khí nóng bỏng của chiến trường, gió mang bụi đến, rồi chúng dường như cùng thức, cùng hành quân ra trận với các anh. Thông thường gió làm mát lòng người ra trận, gió đánh thức nỗi nhớ quê hương. Nhưng trong bài thơ gió làm thần kinh những người lính lái xe căng lên , khiến “ mắt đắng” kệnh cộm vì bụi đường, vì mắt thức thâu đêm.Và trên con đường ra trận, người lính lái xe được tự do quan sát, thoải mái chiêm ngưỡng vẻ đẹp không gian chiến trường. Họ không chỉ “thấy gió vào xoa mắt đắng” mà còn “thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Đó vừa là hình ảnh thực gợi tốc độ lao nhanh của đoàn xe trên đường đèo dốc đá núi, vừa mang ý





nghĩa ẩn dụ biểu tượng cho con đường của lí tưởng, con đường của lòng yêu nước của những người lính lái xe Trường Sơn. Lời thơ còn giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, trẻ trung của người lính lái xe qua hình ảnh so sánh độc đáo: “sao trời”, “cánh chim” “như sa, như ùa vào buồng lái”. Hình ảnh thơ gợi tả thiên nhiên như đồng hành cùng người chiến sĩ lái xe trên mọi nẻo đường ra trận. Có lẽ khoang lái trong xe không kính vốn là nơi nguy hiểm nhất nhưng đã trở thành một vũ trụ tí hon của các anh.Viết như thế há chẳng phải gợi được phong thái ung dung, tư thế hiên ngang, sự bình thản của người lính đó sao. Viết như vậy còn là sự khẳng định tình yêu thiên nhiên đấy chứ. Tất cả điều ấy được tạo bởi lí tưởng và ý chí cao đẹp của họ. Nhờ thế mà tình cảm của những người lính trở nên trong sáng, lãng mạn đến vô cùng.


Trên con đường ra trận, người chiến sĩ lái xe phải đối mặt với bao nhiêu khó khăn, gian khổ, hiểm nguy song họ càng sáng ngời với tinh thần dũng cảm, bất chấp mội khó khăn, gian khổ để vượt lên tất cả. Điều ấy được thể hiện qua hai câu đầu của khổ 3, 4 :


Không có kính, ừ thì có bụi


Bụi phun tóc trắng như người già


............................................


Không có kính ừ , thì ớt áo


Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời



Ta nhận ra ở lời thơ trên lặp cấu trúc câu “không có...ừ thì...” được sử dụng khá sáng tạo phản ánh chân thực những khó khăn do thiên nhiên đem tới đồng thời nhấn mạnh những thử thách, những gian khổ của người lính lái xe. Vì không có kính nên trong những ngày nắng lửa, bụi Trường Sơn đã vào “xoa mắt đắng”, giờ đây lại “phun tóc trắng như người già”. Rồi mùa mưa đến, mưa Trường Sơn xối xả, không có kính chắn nên mưa “tuôn”, “xối” vào buồng lái khiến cho các anh ướt sũng “như ngoài trời”. Câu thơ với những hình ảnh so sánh “như người già”, “như ngoài trời”, kết hợp các động từ mạnh “phun”, “tuôn”, “xối” cùng lặp cấu trúc câu đã khẳng định rằng những người lính lái xe trên đường ra trận không hề có phương tiện thuận lợi mà chỉ có gian khổ, khó khăn chất chồng. Đó là chưa kể đến những trận mưa bom bão đạn, kẻ thù điên cuồng trải thảm chặn đường xe chạy, những người lính có thể hi sinh bất cứ lúc nào. Như thế với hai lời thơ đầu chia đều ở hai khổ 3 và 4 đã phần nào giúp người đọc hiểu được những khó khăn, gian khổ mà người lính lái xe phải trải qua. Hơn ai hết Phạm Tiến Duật đã có hơn tám năm gắn bó với tuyến đường Trường Sơn, từng rất nhiều lần ngồi trong khoang lái của chiếc xe không kính. Thế nên những cảm giác, ấn tượng của người lính lái xe đã được nhà thơ diễn tả một cách chân thực nhất.


Trước muôn vàn những khó khăn, gian khổ như thế nhưng những người lính lái xe


vẫn luôn lạc quan, sôi nổi, trẻ trung:


Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc


Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.


...........................................


Chưa cần thay lái trăm cây số nữa


Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi.



Tác giả đưa vào lời thơ ngôn từ tự nhiên, đậm chất khẩu ngữ, tạo nên giọng thơ vừa dí dỏm, vừa ngang tàng đã diễn tả thái độ đón nhận mọi thử thách của người lính lái xe như một lẽ thường. Điệp khúc "chưa cần rửa, chưa cần thay" nghĩa là họ không cần thay đổi bản thân trước cái bất thường và tác động có hại cho họ từ thiên nhiên. Với các anh, dẫu là bom đạn kẻ thù, là gió, là mưa, là bụi...tất cả đã quen rồi. Như người lính từng nếm trải ốm đau " biết từng cơn ớn lạnh" trong kháng chiến chống Pháp đó thôi. Điệp khúc ấy diễn tả vẻ đẹp ngang tàng, ý chí kiên cường, hiên ngang, thái độ bất chấp gian khổ, hiểm nguy của những chiến sĩ lái xe.


Giữa không gian nồng nặc thuốc súng, đạn bom, lửa khói là tiếng “cười ha ha”. Tiếng cười hồn nhiên trong trẻo biết bao. Tiếng cười vút lên như thách thức kẻ thù. Tiếng cười lạc quan, sảng khoái của người lính làm tan biến những âu lo, mệt mỏi trên tuyến đường vốn nhiều lửa nhiều bom. Tiếng cười ấy còn đọng lại trong ta một tâm hồn trẻ trung, lãng mạn của những người lính trẻ.


Hai khổ thơ vẫn dùng những câu thơ đậm chất văn xuôi, giọng điệu ngang tàng mà thanh thoát đã thể hiện được hình ảnh người lính mang trong mình tinh thần lạc quan phơi phới. Các anh không chỉ chấp nhận , đón nhận một cách chủ động gian khổ hi sinh mà “ thì “ còn cho thấy tâm trạng nhẹ nhàng thanh thản ; các chiến sĩ lái xe vượt qua gian khổ coi hiểm nguy nhẹ tựa lông hồng, đẩy lùi hiểm nguy bằng nụ cười hồn nhiên. Cách viết thật hay mà cũng vô cùng giản dị, không phô trương, lên gân sáo mòn ước lệ. Và chính cách viết này đã tạo ra một phong cách Phạm Tiến Duật nổi bật trong làng thơ kháng chiến chống Mĩ .


Khác với khung cảnh những đoàn bộ binh vượt Trường Sơn bằng " đôi hài vạn dặm" tạo nên vẻ đẹp:


Trường Sơn mây núi lô nhô


Quân đi sóng lợn nhấp nhô bụi hồng


(Tố Hữu)


Phạm Tiến Duật đã ghi lại những khoảnh khắc thật đẹp đẽ, cảm động thể hiện tình


đồng chí, đồng đội của những người lính lái xe không kính:




Những chiếc xe từ trong bom rơi


Đã về đây họp thành tiểu đội


Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới


Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.



Đời người lính, nhất là những anh lính lái xe gắn bó máu thịt với từng tuyến đường thì hành trình ra trận của họ phải vượt qua bao đèo dốc với những mưa bom, bão đạn. Những giây phút nghỉ ngơi ở chiến trường thật sự là những khoảnh khắc yên bình, hiếm hoi nhất. Câu thơ mở đầu khổ 5 đã khắc họa thật chân thực những chiếc xe không kính đến từ trong bom rơi, gặp gỡ, hội ngộ thành tiểu đội ấm áp thân tình. Đẹp nhất trong khổ thơ là hình ảnh tả thực nhưng rất lãng mạn: “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Cái bắt tay rất vội thay cho lời chào gặp mặt, đã tiếp thêm sức mạnh để các anh vượt qua mọi gian khổ, hiểm nguy. Cái bắt tay ấy thắm tình đồng chí, đồng đội, không chỉ truyền cho nhau sức mạnh mà còn truyền cho nhau niềm tin, nghị lực, lòng quyết tâm để các anh vững tay lái trên những ngả đường ra trận.


Khổ thơ thứ 6 của bài thơ đã tái hiện được không khí gia đình của những người lính lái xe thật ấm áp, thân tình, thắm tình đồng chí đồng đội.


Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời


Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy


Võng mắc chông chênh đường xe chạy


Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.



Qua những lời thơ trên, Phạm Tiến Duật đã phần nào tái hiện được cuộc sống sinh hoạt của những người lính lái xe giữa chiến trường khói lửa, đồng thời còn gợi ra một định nghĩa đặc biệt về “gia đình”. Những người lính gặp nhau một lần trong đời, ăn chung

với nhau một bữa cơm đã coi nhau như những người trong một gia đình.Tình cảm của họ sâu nặng, thiêng liêng được xích lại từ nhiều cái chung: chung “bát đũa”, chung “bếp lửa”, chung “con đường”. Câu thơ đẹp về cách nhìn, cách nghĩ không khác gì tình đồng chí của những người lính trong thời kì chống Pháp qua bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Và một lần nữa nhà thơ lại nói đến khó khăn: “Võng mắc chông chênh đường xe chạy”. Mặc cho chông chênh, gian khổ là thế nhưng họ vẫn: “lại đi, lại đi, trời xanh thêm”. Điệp ngữ “lại đi”kết hợp với hình ảnh ẩn dụ “trời xanh thêm” chỉ niềm lạc quan, lòng quyết tâm, niềm hi vọng, luôn hướng về phía trướcvì miền Nam thân yêu của những người lính lái xe. Chính tình đồng chí, đồng đội đã nâng bước chân các anh đi tiếp những chặng đường gian nan, thử thách. Ta khâm phục và tự hào về tình đồng chí, đồng đội gắn bó thắm thiết của những người lính lái xe Trường Sơn.


Hoàn thiện vẻ đẹp bức chân dung người lính lái xe Trường Sơn là lòng yêu nước,


  • chí quyết tâm chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước: Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước


Chỉ cần trong xe có một trái tim



Đọc cả bài thơ, người đọc nhận ra một sự đối lập đến bất ngờ giữa phương diện vật chất và tinh thần, giữa vẻ bên ngoài và bên trong của chiếc xe. Cái vật chất, cái bên ngoài được khắc họa qua một loạt điệp từ “không” , kết hợp phép liệt kê ở hai câu thơ trước của khổ 7 “không kính”, “không đèn”, “không mui”, “có xước”...Thế nhưng người lính lái xe yêu xe như con, quý xăng như máu, bởi thế dù xe có hỏng nặng, chiến tranh có ác liệt đến mấy thì " Xe vẫn chạy vì miền Nam..." vì chỉ cần trong xe “có một trái tim” . Hình ảnh “một trái tim” khép lại bài thơ là nhãn tự, là biểu tượng chỉ người lính lái xe qua phép hoán dụ, đồng thời cũng là ẩn dụ chỉ lòng yêu nước nồng nàn, ý chí quyết tâm chiến đấu vì miền Nam ruột thịt. Khổ thơ cuối của bài thơ ngợi ca lòng yêu nước, ý chí quyết chiến quyết thắng của tuổi trẻ Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ. Đó chính là dũng khí:


Thiếu tất cả ta rất giàu dũng khí


Sống chẳng cúi đầu chết vẫn ung dung


Giặc muốn ta nô lệ ta lại hoá anh hùng


Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo.



Sức nhân nghĩa sẽ giúp ta chiến thắng mọi ác tà cường bạo của giặc Pháp trước kia và quân Mĩ ngày nay. “Trái tim” là ngọn đèn chỉ dẫn cho ta hướng tới nhân nghĩa, hướng tới tương lai hoà bình, độc lập.


Tóm lại, với hình ảnh thơ đầy ắp chất hiện thực vừa bay bổng lãng mạn, với những ấn tượng, cảm giác cụ thể sống động, bằng giọng điệu trữ tình thắm thiết mà sôi nổi ngang tàng; với những lời thơ không hoa mĩ mà giản dị gần với văn xuôi, gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày... Phạm Tiến Duật đã sáng tạo được một hình ảnh thơ độc đáo, qua đó làm nổi bật chân dung người lính lái xe Trường Sơn năm xưa ở mọi tư thế, góc độ với vẻ đẹp hiên ngang, dũng cảm, lạc quan, thắm tình đồng chí đồng đội và ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam. Toát ra từ bức chân dung ấy là vẻ đẹp tinh thần của người chiến sĩ Việt Nam, là ý chí sức mạnh của dân tộc ta trong sự nghiệp cứu nước.


Năm tháng qua đi, cuộc đời thoáng chốc trôi nhanh như chớp mắt, Phạm Tiến Duật đã về bên kia thế giới nhưng thơ ông vẫn như “cây đời mãi mãi xanh tươi”. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” cùng một số tác phẩm khác của Phạm Tiến Duật như “Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây”, “Gửi em cô thanh niên xung phong”...đã kết thành khúc ca tự hào về vẻ đẹp những người lính thời chống Mỹ.




Những người lính trong thơ Phạm Tiến Duật là những phi công dũng cảm trên mặt đất mang trong mình tình yêu tổ quốc, tình yêu con người. Hình ảnh họ làm cho chúng ta thêm tin yêu kính phục thế hệ cha anh đã sống và chiến đấu , đã đổ máu và hi sinh cho độc lập tự do ấm no hạnh phúc hôm nay. Viết về bài thơ và nhà thơ chiến sĩ này ta như thắp một nén hương thơm tri ân người đã khuất. Dù cho "Ngọn lửa đèn " trên đỉnh Trường Sơn đã tắt và chiến tranh đã đi qua , nhưng mọi người vẫn nhớ đến nhà thơ, một nhà thơ được ví như vẻ đẹp của cúc rừng, một loài hoa biểu tượng cho lòng hiếu nghĩa thủy chung với quê hương đất nước.


Cây cúc đắng quên lòng mình đang đắng


Trổ hoa vàng dọc suối để ong bay.



Hoa đã trổ vàng trong thơ ông và hoa sẽ trổ vàng trên bia mộ ông mãi mãi với niềm khâm phục và biết ơn nhà thơ chiến sĩ.





Hết



Giáo viên: Nguyễn Thị Thơm


Email: [email protected]


Đề bài: Bàn về câu tục ngữ sau: “Thất bại là mẹ thành công”.





Bài làm


Nhà thơ Tố Hữu từng viết:


Ai chiến thắng mà không hề chiến bại


Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần?”


(Dậy mà đi)



Hai câu thơ cho ta hiểu con đường đến với thành công, trưởng thành không dễ dàng, đơn giản. Nhiều khi phải trải qua những lần vấp ngã, thất bại. Mỗi lần thất bại, vấp ngã là một lần ta rút ra thêm được một bài học cho bản thân. Đó là kinh nghiêm sống quý giá cho mỗi người, đề caovai trò của ý chí đối với mỗi con người trong cuộc sống. Cùng quan điểm ấy, tục ngữ Việt Nam có câu: “Thất bại là mẹ thành công.”


Thất bại là mẹ thành công” là câu tục ngữ hàm súc, với cách nói ẩn dụ giàu ý nghĩa. “Thất bại” là không đạt được mục đích mình đề ra. “Thành công” là kết quả đạt được như ý muốn, là những gì ta có được, đạt được mục tiêu mà mình đề ra.Câu tục ngữ ví “thất bại” là người mẹ sinh ra ‘thành công”, nhắn nhủ chúng ta bài học sâu sắc: trong cuộc sống mỗi chúng ta không thể tránh khỏi những khó khăn, những thất bại nhưng hãy không được phép đầu hàng, gục ngã mà phải biến những thử thách, thất bại ấy thành động lực để vươn lên, chạm đến thành công. Đó chính là bài học thấm thía về ý chí, nghị lực và lòng quyết tâm. Như muốn biết bơi bạn đã bao nhiêu lần phải sặc nước? Biết đi xe đạp như ngày hôm nay bạn đã phải bỏ bao công sức để luyện tập thậm chí phải chảy máu vì ngã đau?Và trong kinh doanh, đã bao lần các doanh nghiệp bị thất bại, phá sản nhưng không phải vì thế mà họ nản lòng, nhụt chí để rồi trở thành những doanh nhân thành đạt? Đó chính là những biểu hiện tiêu biểu cho ý chí, nghị lực, cho “thất bại là mẹ thành công.”



Ta biết rằng trên bước đường đời của mỗi con người, không phải lúc nào ta cũng được hưởng những thơm ngon, vị ngọt của của thành công mà đôi khi bàn chân sẽ thấm đau bởi những “mũi gai” khó khăn, thất bại. Đó chính là quy luật tất yếu của cuộc sống. Đứng trước những khó khăn ấy, tôi và bạn cần phải học cách vững vàng để đối mặt với những khó khăn, thử thách.Đó chính là môi trường tôi luyện để chúng ta dày dạn kinh nghiệm hơn. Mặc dù vậy, trước những khó khăn thất bại lại có những bạn sợ hãi, nản lòng, thậm chí bỏ cuộc. Như thế họ sẽ không bao giờ chạm tới vòng nguyệt quế vinh quang của sự thành công. Vì vậy, ý chí chính là chìa khóa vàng để ta mở cánh cửa của sự thành công, là thước đo để hoàn thiện nhân cách con người. Có ý chí, nghị lực vươn lên ta sẽ được mọi người yêu quý, kính trọng. Đặc biệt đối với các bạn trẻ hiện nay, trước guồng quay bất tận của cuộc sống cần phải có ý chí, bản lĩnh và lòng quyết tâm để không sa đà vào những cám dỗ đời thường.


Đất nước Việt Nam ta mãi tự hào về Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, suốt một đời lo cho nước, cho dân, đi nhiều nơi và làm đủ mọi việc. Con đường Người phải đi thật gian lao, vất vả nhưng với ý chí, quyết tâm, nghị lực phi thường Người đã mang đến cho dân tộc ta ánh sáng của độc lập tự do, một cuộc đời ấm no, hạnh phúc. Tấm gương Nguyễn Ngọc kí cũng là niềm tự hào về ý chí, nghị lực của con người Việt Nam. Dù bị liệt cả hai tay nhưng với nghị lực phi thường, bản lĩnh kiên trì, quyết tâm, cậu học trò tật nguyền ấy đã tập viết bằng chân với những nét chữ thật đẹp, rồi sau này trở thành người thầy giáo được bao thế hệ quý trọng. Nhìn ra thế giới, có lẽ chúng ta không thể quên nhà soạn nhạc lừng danh Beethoven. Khó khăn ập đến với ông đó là đôi tai bị khiếm thính, nhưng không vì thế mà ông gục ngã. Ông đã kiên trì luyện tập, sáng tác và để lại cho đời những bản nhạc bất hủ. Với các bạn sinh viên thì Nick vujicic, anh chàng người Úc là tấm gương sáng ngời về ý chí, nghị lực. Ngay từ khi sinh ra, may mắn đã không mỉm cười với anh vì cả đôi chân và tay anh bị tật nguyền.Tưởng chừng anh sẽ trở thành gánh nặng cho gia đình, sẽ mãi sống trong mặc cảm tự ti. Nhưng thật kì diệu, không để khó khăn thất bại quật ngã anh đã vươn lên bằng nghị lực của bản thân và rồi trở thành vận động viên bơi giỏi, trở thành nhà diễn thuyết truyền cảm hứng nổi tiếng thế giới. Tất cả những tấm gương sáng ngời ấy chính là minh chứng sáng nhất về ý chí, nghị lực sống phi thường, bản lĩnh và lòng quyết tâm của con người trong cuộc sống.


Nhưng cuộc sống đâu phải ai cũng tuyệt vời như thế, vẫn còn đâu đó những kẻ hèn nhát, yếu đuối, đứng trước khó khăn, thất bại đã nản lòng, nhụt chí, từ bỏ ước mơ của mình. Trong học tập, có những bạn học sinh thấy bài khó đã bỏ, không chịu tìm tòi, suy nghĩ mà vội chép bài, gian lận trong kiểm tra và thi cử. Trong lĩnh vực kinh doanh, có doanh nghiệp mới thất bại lần đầu đã đầu hàng, gục ngã, lấn át hết lí trí đi theo con đường phạm pháp như buôn lậu, làm hàng giả, kém chất lượng... Những con người như thế sẽ không bao giờ đạt được thành công mà còn trở thành gánh nặng cho xã hội. Họ thât đáng chê trách!


Hãy hướng về phía mặt trời, bóng tối sẽ ngả sau lưng bạn”! Ta phải nhận thức được tầm quan trọng của ý chí, nghị lực trong cuộc sống. Bởi ý chí, nghị lực là con đường ngắn nhất để ta vươn tới thành công. Dù là thế, ý chí không phải là bảo thủ, cứ cố làm những điều mà mình cho là đúng mà phải biết lắng nghe để có lối đi đúng đắn. Ý chí là điều kiện cần nhưng chưa đủ, ta còn cần có kiến thức và hiểu biết. Những kiến thức ấy, tôi và bạn phải tích lũy trong quá trình học tập và trong cuộc sống hàng ngày mới có. Vì thế, mỗi chúng ta hãy chăm chỉ học tập, có phương pháp học tập đúng đắn để tích lũy kiến thức làm hành trang cho cuộc đời. Có như thế thành công mới đến với chúng ta.


Trong “Nhật kí Đặng Thùy Trâm” có viết: “Đời phải trải qua giông tố nhưng không được phép cúi đầu trước giông tố”. Thật đúng vậy, cuộc sống này đầy rẫy những khó khăn thất bại nhưng chúng ta hãy biết đứng dậy, vươn lên để vượt qua những khó khăn thất bại ấy hoặc biến những khó khăn thất bại ấy làm bước đệm cho ta vươn lên. Bởi “thất bại là mẹ thành công”!








Hết




DỰ ÁN 9: NGHỊ LUẬN VĂN HỌC LỚP 9


Giáo viên: Đinh Thị Thanh Tâm


Đơn vị: Trường THCS Hóa Hợp- Minh Hóa- Quảng Bình


Email: [email protected]



Đề bài: Sau khi đọc xong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng, có người đã nhận xét:


Truyện ngắn hiện đại mà âm vang như một truyện cổ tích với biết bao chi tiết, tình huống bất ngờ, kỳ diệu đã thể hiện tình cha con đằm thắm, bất diệt”.


Qua phân tích truyện ngắn “Chiếc lược ngà”, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.


Bài làm



Mỗi một tác phẩm văn học ra đời đều mang một số phận riêng. Có tác phẩm vừa cất tiếng khóc chào đời đã chết yểu đáng thương; có tác phẩm gây dư luận xôn xao một thời gian rồi bị độc giả lãng quên với thời gian. Nhưng cũng có những bài thơ, quyển truyện có một sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc, có một sức hút kỳ lạ. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng là một tác phẩm như thế, một tác phẩm viết về tình cha con và nỗi đau trong chiến tranh đã đề lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Đọc xong tác phẩm này, có người đã nhận xét: “Truyện ngắn hiện đại mà âm vang như một truyện cổ tích với biết bao chi tiết, tình huống bất ngờ, kỳ diệu đã thể hiện tình cha con đằm thắm, bất diệt”.


Lời nhận xét trên là một lời nhận xét hay và thật đúng với truyện ngắn “Chiếc lược ngà”. Truyện có âm vang như truyện cổ tích, truyện đã xây dựng với nhiều chi tiết đặc sắn như: chi tiết vết thẹo, chi tiết chiếc lược ngà.. tất cả đã được xây dựng rất khéo léo, hợp lí góp phần làm nên thành công cho câu chuyện, thấy được tình cảm cha con thật đằm thắm, bất diệt. Đặc biệt tác giả thể hiện rõ tình cảm đó bằng việc xây dựng thành công hai tình huống bất ngờ: Hai cha con gặp nhau sau tám năm xa cách, nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận ra cha vì do cái vết thẹo trên má cha, đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm thắm thiết thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. Đây là tình huống cơ bản của truyện. Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn hết tình yêu thương và mong nhớ đứa con vào việc làm cây lược ngà để tặng con như đã hứa trước lúc lên đường nhưng ông Sáu đã hi sinh khi chưa kịp trao món quà ấy cho con gái yêu quý của mình. Nếu tình huống thứ nhất bộc lô tình cảm mãnh liệt của bé Thu đối với cha thì tình huống thứ hai lại bộc lộ tình cảm sâu sắc của người cha dành cho con.


Gặp lại con sau nhiều năm xa cách với bao nỗi nhớ thương nên ông Sáu không kìm được nỗi vui mừng trong phút đầu nhìn thấy cô con gái bé bỏng của mình, nhưng thật trớ trêu, đáp lại sự vồ vập của cha là thái độ ngờ vực, lảng tránh của bé Thu. Ông Sáu càng muốn gần con thì bé Thu càng tỏ ra lạnh nhạt, xa cách. Tâm lí và thái độ ấy của bé Thu đã được biểu hiện qua hàng loạt chi tiết mà người kể chuyện quan sát và thuật lại rất sinh động. Nó hốt hoảng, mặt tái đi rồi vụt chạy và kêu thét lên khi mới gặp anh Sáu. Trong những ngày ông Sáu ở nhà bé Thu chỉ gọi trống không mà ko chịu gọi cha. Nhất định không chịu nhờ ông giúp chắt nước nồi cơm to đang sôi, hất trứng cá mà ông gấp cho, cuối cùng khi bị ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà ngoại, khi xuống xuồng con cố ý khua dây cột xuồng kêu rộn ràng thật to.


Ta thấy bé Thu có hành động và thái độ như thế là ương ngạnh nhưng sự ương ngạnh này của bé Thu là hoàn toàn không đáng trách, là có nguyên do của nó. Trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá bé nhỏ để có thể hiểu được những tình thế khắc nghiệt, éo le của đời sống và người lớn cũng không ai kịp chuẩn bị cho nó đón nhận những khả năng bất thường nên nó không tin ông Sáu là cha nó chỉ vì trên khuôn mặt ông có thêm vết thẹo, khác với hình ba mà nó đã được biết qua tấm ảnh chụp chung với má. Phản ứng tâm lí của em là hoàn toàn tự nhiên, nó càng chứng tỏ bé Thu, tình cảm của em sâu sắc, chân thật, em chỉ yêu ba khi tin chắc đó đúng là ba. Trong cái cứng đầu của em có ẩn chứa cả sự kiêu hãnh trẻ thơ về một tình yêu dành cho người cha khác- người trong tấm hình chụp chung với má của em.


Buổi sáng cuối cùng trước khi ông Sáu lên đường, thái độ của bé Thu đột ngột thay đổi. Trong đêm bỏ về nhà ngoại, Thu đã được bà giải thích về vết thẹo. Bé hiểu ra, ân hận và hối tiếc vô cùng, chính chi tiết này đã tạo nên thắt nút, mở nút bất ngờ, hợp lí.


Phút chia tay “vẻ mặt nó sầm lại vì buồn rầu, cái vẻ buồn trên khuôn mặt ngây thơ của con bé trông thật dễ thương”. Khi ông Sáu nhìn con để chào từ biệt, “đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao”, tình cha con bị dồn nén bấy lâu chợt bùng lên mạnh mẽ, hối hả, cuống quýt. Nó thét lên gọi ba…ba… “tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa”. Hành động của Thu cũng thay đổi “Nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó nhảy thót lên dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”; “nó hôn ba cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ hôn vai, và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”; “Hai tay nó siết lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi cấu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run run”. Trong giờ phút chia tay với cha, tình yêu và nỗi nhớ với người cha xa cách đã bị dồn nén bấy lâu nay bày ra thật mạnh mẽ, xen lẫn cả sự hối hận. Phút chia li ấy thật đẹp, đẹp như cổ tích vậy


Ta thấy tình cảm của ông Sáu với con được thể hiện phần nào trong chuyến về phép thăm nhà. Khát khao mong muốn được gặp con, muốn được ôm con vào lòng, vuốt ve, âu yếm, thèm một tiếng gọi cha, quan tâm chăm sóc mặc dù đều bị con từ chối làm cho ông Sáu buồn bã, thất vọng. Nhưng tình cảm của người cha thể hiện thật sâu sắc ở phần sau của truyện khi ông Sáu ở tại khu căn cứ. Nỗi day dứt, ân hận, ám ảnh ông suốt nhiều ngày sau khi chia tay với gia đình là việc ông đã đánh con khi nóng giận, rồi lời dặn của con “Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba?” đã thúc đẩy ông nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà dành cho con. Anh cặm cụi “cưa từng răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như một người thợ bạc” để rồi khi chiếc lược hoàn thành, anh còn khắc lên đó dòng chữ nhỏ “Yêu nhớ tặng con Thu của ba”… Chiếc lược đã thành một vật quý giá, thiêng liêng với ông Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận và chứa đựng bao nhiêu tình cảm yêu mến, nhớ thương, mong đợi của người cha đối với con xa cách. Điều đó thật đẹp và thiêng liêng vô cùng.


Chủ đề của truyện không mới lạ, nhưng tác giả thành công bởi đã khai thác tình cảm cha con trong những tình huống éo le, cảm động. Cách lựa chọn ngôi kể, tạo lập tình huống bất ngờ mà tự nhiên , hợp lí cùng với việc miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc, đặc biệt là tâm lí trẻ thơ đã giúp cho văn bản có được vị trí ấn tượng trong lòng người đọc


Câu chuyện về “Chiếc lược ngà” đúng là một truyện ngắn hay, đúng là một truyện ngắn hay, không chỉ nói lên tình cảm cha con thắm thiết, sâu sắc mà còn gợi cho người đọc suy ngẫm và thấm thía những mất mát và đau thương mà chiến tranh gây ra cho bao nhiêu gia đình. Từng tình huống, từng chi tiết thật bất ngờ, đã góp phần làm rõ tình





cha con thật đẹp nhưng cũng rất éo le. Bởi vậy ta càng thêm trân trọng cuôc sống hòa


bình mà chúng ta đang có ngày hôm nay.




Đề ra: Có người nhận xét: “Lặng lẽ Sa Pa” là một bài thơ được viết bằng văn xuôi ngợi ca vẻ đẹp trong sự lặng lẽ tỏa hương của thiên nhiên và con người”.


Phân tích truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long để làm sáng tỏ ý kiến trên.


Bài làm



Nguyễn Thành Long là một cây bút chuyên viết truyện ngắn. Ông đã rất thành công ở các tác phẩm khai thác đề tài về những con người lao động mới trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”. Tác phẩm không chỉ vẽ ra một bức tranh thiên nhiên đẹp và thơ mộng mà còn là lời ca ngợi những con người đang ngày đêm miệt mài lao động, cống hiến cho Tổ quốc. Vì vậy đã có nhận xét cho rằng: Lặng lẽ Sa Pa” là một bài thơ được viết bằng văn xuôi ngợi ca vẻ đẹp trong sự lặng lẽ tỏa hương của thiên nhiên và con người”.


Lặng lẽ Sa Pa” là một bức tranh thiên nhiên rất đẹp, đầy chất thơ. Những bức tranh phong cảnh thiên nhiên đẹp và đầy thơ mộng của Sa Pa được miêu tả qua cái nhìn của ông họa sĩ già: “Sa Pa bắt đầu với những rặng đào và với những đàn bò làn cổ có đeo chuông ở các đồng cỏ trong thung lũng hai bên đường” Giữa màu xanh của rừng, những cây thông “rung tít trong nắng”, những cây tử kinh “màu hoa cà” hiện lên đầy thơ mộng. Có lúc cảnh tượng núi rừng vô cùng tráng lệ, đó là khi “nắng đã mạ bạc cả con đèo, đốt cháy rừng cây, đốt cháy rừng cây hừng hực như một bó đuốc lớn”. Tất cả như dẫn hồn du khách vào miền đất lạ kỳ thú. Trên cái nền bức tranh thiên nhiên ấy, cuộc sống của con người nơi miền Tây Tổ quốc thân yêu càng thêm nồng nàn thú vị:


nắng chiếu làm cho bó hoa càng thêm rực rỡ và làm cho cô gái cảm thấy mình rực rỡ theo”. Có thể nói đó là những nét vẽ rất tinh tế và thơ mộng.


Con người đáng yêu nơi Sa Pa lặng lẽ: Bác lái xe vui tính, cởi mở, nhiệt tình với hành khách. Ông họa sĩ già say mê nghệ thuật, là một người có tâm hồn nhạy cảm. Cô kỹ sư trẻ mới ra trường đã hăng hái xung phong lên Lào Cai công tác, bước vào cuộc sống bát ngát mới tinh, cái gì cũng làm cho cô háo hức. Cô khát khao đất trời cao rộng, cô có thể đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì… Ông kỹ sư ở vườn rau Sa Pa suốt đời nghiên cứu và lai tạo giống su hào to củ và ngọt để phục vụ dân và xuất khẩu. Đồng chí cán bộ nghiên cứu khoa học “suốt ngày chờ sét”, nửa đêm mưa gió, hễ nghe tiếng sét là “choàng choàng chạy ra”, mười một năm không một ngày xa cơ quan, “không đi đến đâu mà tìm vợ”, lo “làm bản đồ sét riêng cho đất nước”


Tiêu biểu nhất là anh thanh niên hai mươi bảy tuổi, làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu trên đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét, “một trong những người cô độc nhất thế gian”. Anh sống một mình giữa thiên nhiên lặng lẽ “bốn bề chỉ cây cỏ và mây mù lạnh lẽo”, trong rực rỡ của những loài hoa: hoa lay ơn, hoa thược dược, vàng, tím, đỏ, hồng phấn, tổ ong… Anh có nhiệm vụ đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất” góp phần dự báo thời tiết, phục vụ sản xuất và chiến đấu. Những đêm bão tuyết





Đề bài: Cảm nhận của em về người bà trong bài thơ Bếp lửa của nhà thơ Bằng Việt.

Giáo viên: Bùi Thị Chi


Gmail: [email protected]





Bài viết:



Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng ông một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ “Bếp lửa” của ông.


Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. Ở nơi đất khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà:


Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm


Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”



Hình ảnh “chờn vờn” gợi lên những mảnh kí ức hiện về trong tác giả một cách chập chờn như khói bếp. Bếp lửa được thắp lên, nó hắt ánh sáng lên mọi vật và toả sáng tâm hồn đứa cháu thơ ngây. Bếp lửa được thắp lên đó cũng là bếp lửa của cuộc đời bà đã trải qua “ biết mấy nắng mưa”. Từ đó, hình ảnh người bà hiện lên. Dù đã cách xa nữa vòng trái đất nhưng dường như Bằng Việt vẫn cảm nhận được sự vỗ về, yêu thương, chăm chút từ đôi tay kiên nhẫn và khéo léo của bà. Trong cái khoảnh khắc ấy, trong lòng nhà thơ lại trào dâng một tình yêu thương bà vô hạn. Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như một dòng sông với con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm mà suốt cuộc đời này chắc người cháu không bao giờ quên được và cung chính t? đó, sức ấm và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan toả toàn bài thơ. Khổ thơ tiếp theo là dòng hồi tưởng cùa tác giả về những kỉ niệm của những năm tháng sống bên cạnh bà. Lời thơ giản dị như lời kể, như những câu văn xuôi, như thủ thỉ, tâm tình, tác giả như đang kể lại cho người đọc nghe về câu chuyện cổ tích tuổi thơ mình. Nếu như trong câu chuyện cồ tích của những bạn cùng lứa khác có bá tiên, có phép màu thí trong câu chuyện của băng Việt có bà và bếp lửa. Trong những năm đói khổ, người bà đã gắn bó bên tác giả, chính bà là người xua tan bớt đi cái không khí ghê rợn của nạn đói 1945 trong tâm trí đứa cháu. Cháu lúc nào cũng được bà chở che, bà dẫu có đói cũng để cháu thiếu bữa ăn nào, bà đi mót từng củ khoai, đào từng củ sắn đểâ


cháu ăn cho khỏi đói:


Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói


Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi


Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy


Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu


Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”



Chính “mùi khói” đã xua đi cái mùi tử khí trên khắp các ngõ ngách. Cũng chính cái mùi khói ấy đã quện lại và bám lấy tâm hồn đứa trẻ. Dù cho tháng năm có trôi qua, những kí ức ấy cũng sẽ để lại ít nhiều ấn tượng trong lòng đứa cháu để rồi khi nghĩ lại lại thấy “sống mũi còn cay”. Là mùi khói làm cay mắt người người cháu hay chính là tấm lòng của người bà làm đứa cháu không cầm được nước mắt?


Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm bếp Tu hú kêu trên những cách đồng xa Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà


Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế


Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”



Cháu cùng bà nhóm lửa”, nhóm lên ngọn lửa củasự sống và của tìng yêu bà cháy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy. Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu như giục giã lúa mau chín, người nông dân mau thoát khỏi cái đói, và dường như đó cũng là một chiếc đồng hồ của đứa cháu để nhắc bà rằng: “Bà ơi, đến giờ bà kể chuyện cho cháu nghe rồi đấy!”. Từ “tu hú” được điệp lại ba lấn làm cho âm điệu cấu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả.Tiếng “tu hú” lúc mơ hà, lúc văng vẳng từ nững cánh đồng xa lâng lâng lòng người cháu xa xứ. Tiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơn, rộng hơn trong cái không gian xa thẳm của nỗi nhớ thương.


Nếu như trong những năm đói kém của nạn đói 1945, bà là người gắn bó với tác giả nhất, yêu thương tác giả nhất thì trong tám năm ròng của cuộc kháng chiến chống Mĩ, tình cảm bà cháu ấy lại càng sâu đậm:


Mẹ cùng cha bận công tác không về


Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe


Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.


Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc


Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà


Kêu chi hoài trên những cách đồng xa”



Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư, bố mẹ phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng dường như đối với đứa cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ.? cùng bà, ngày nào cháu cũng cùng bà nhóm bếp. Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ mờ ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu truyện cổ huyền ảo của cháu. Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước mơ của con vào một khung trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài lên ngực áo thì đoiá với Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừalà mẹ, vừa là cách chim, là một cành hoa của riêng ông. Cho nên, tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá đối với ông. Trong những tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính đầu tiên. Không chỉ thế, bà còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người. Những bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu.


Chiến tranh, một danh từ bình thường nhưng sức lột tả của nó thì khốc liệt vô cùng, nó đã gây ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà cháu trong bài thơ cũng trở thành một nạn nhân của chiến tranh: gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi...


Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi


Hàng xóm bốn bên trở vế lầm lụi


Đỡ đần bà dựng lại túp lếu tranh


Vẫng vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:


Bố ở chiến khu bố còn việc bố


Mày viết thư chớ kể này kể nọ


Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!’



Cuộc sống càng khó khăn, cảnh ngộ càng ngặt ngèo, nghị lực của bà càng bền vững, tấm lòng của bà càng mênh mông. Qua đó, ta thấy hiện lên một người bà cần cù, nhẫn nại và giàu đức hi sinh. Dù cho ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà cháu đã bị đốt nhẵn, nơi nương thân của hai bà cháu nay đã khong còn, bà dù có đau khổ thế nào cũng không dám nói ra vì sợ làm đứa cháu bé bong của mình lo buồn. Bà cứng rắn, dắt cháu vượt qua mọi khó khăn, bà không đứa con đang bận việc nước phải lo lắng chuyện nhà.


Kết thúc khổ thơ, Bằng Việt đã nâng hình ảnh bếp lửa trở thành hình ảnh ngọn, một ngọn lửa:


Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn,


Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.



Hình ảnh ngọn lửa toả sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngọn lửa của tình yên thương, ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa đỏ hồng si sáng cho con đường đứa cháu. Bà luôn nhắc cháu rằng: nơi nào có ngọn lửa, nơi đó có bà, bà sẽ luôn ở cạnh cháu.


Những dòng thơ cuối bài cũng chính là những suy ngẫm về bà và bếp lửa mà nhà thớ muốn gởi tới bạn đọc, qua đó cũng là những bài học sâu sắc từ công việc nhóm, lửa tưởng chừng đơn giản:


Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm”



Một lần nữa, hình ảnh bếp lửa “ ấp iu”, “nồng đượm” đã được nhắc lại ở cuối bài thơ như một lần nữa khẳng định lại cái tình cảm sâu sắc của hai bà cháu. “Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi”


Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu thương những người ruột thịt và nhắc cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩ tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã sống vơi nhau, những năm tháng mà hai bà cháu mình cùng chia nhau từng củ sắn, củ mì.


Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui”



Nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” của bà hay là lời răn dạy cháu luôn phải mở lòng ra với mọi người xung quanh, phải gắn bó với xóm làng, đừng bao giờ có một lối sống ích kỉ.


Nhóm dậy cả những tâm tinh tuổi nhỏ”.



Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đầy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp. thêm huyền ảo như trong truyện. Người bà có trái tim nhân hậu, người bà kì diệu đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn đứa cháu để mai này cháu khôn lớn thành người. Người bà kì diệu như vậy ấy, rất giản dị nhưng có một sức mạnh kì diệu từ trái tim, ta có thể bắt gặp người bà như vậy trong “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh:


Tiếng gà trưa


Mang bao nhiêu hạnh phúc


Đêm cháu về nằm mơ


Giấc ngủ hồng sắc trứng.”



Suốt dọc bài thơ, mười lấn xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà. Âm điệu những dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm dâng trào lớp lớp sóng vỗ vào bãi biễn xanh thẳm lòng bà. Người bà đã là, đang là và sẽ mãi mãi là người quan trọng nhất đối với cháu dù ở bất kì phương trời nào. Bà đã trở thành một người không thể thiếu trong trái tim cháu.


Giờ đây, khi đang ở xa bà nửa vòng trái đất, Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình


về bà:


Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu


Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả


Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở


Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”



Xa vòng tay chăm chút của bà để đến với chân trời mới, chính tình cảm của hai bà cháu đã sưởi ấm lòng tác giả trong cái mùa đông lạnh giá của nước Nga. Đứa cháu nhỏ của bà ngày xưa giờ đã trưởng thành nhưng trong lòng vẫn luôn đinh ninh nhớ về góc bếp, nới nắng mưa hai bà cháu có nhau. Đứa cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ của đứa cháu đã được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó.


Tình bà cháu trong bài thơ Bếp lửa của bằng Việt là tình cảm thiêng liêng và cảm động. Bà dành cho cháu những hi sinh thầm lặng của phần đời mong manh còn lại. Bà là mái ấm chở che, bao bọc tuổi thơ dại khờ, yếu đuối của cháu trước những mất mát, đau thương của cuộc sống. Và người cháu, những năm tháng cháu đi trong đời là những năm tháng cháu nhớ đến bà với lòng tin yêu và biết ơn sâu sắc. Ngọn lửa bà trao cho cháu được cháu giữ vẹn nguyên để trở thành ngọn lửa trường tồn, bất diệt.


Đọc và cảm nhận tình yêu thương chan chứa tình yêu thương của người bà trong bài thơ Bếp lửa, người đọc thấy yêu hơn, trân trọng hơn những ngọn lửa tỏa trong căn nhà mình cùng những người thân yêu ta có được trên đời. Người bà đã trở thành linh hồn trong căn bếp Việt mà mỗi chúng ta luôn trân trọng, muốn được trở về.


DỰ ÁN 9: NGHỊ LUẬN VĂN HỌC LỚP 9



Giáo viên: Đinh Thị Thanh Tâm


Đơn vị: Trường THCS Hóa Hợp- Minh Hóa- Quảng Bình


Email: [email protected]



Đề bài: Sau khi đọc xong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng, có người đã nhận xét:


Truyện ngắn hiện đại mà âm vang như một truyện cổ tích với biết bao chi tiết, tình huống bất ngờ, kỳ diệu đã thể hiện tình cha con đằm thắm, bất diệt”.


Qua phân tích truyện ngắn “Chiếc lược ngà”, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.


Bài làm



Mỗi một tác phẩm văn học ra đời đều mang một số phận riêng. Có tác phẩm vừa cất tiếng khóc chào đời đã chết yểu đáng thương; có tác phẩm gây dư luận xôn xao một thời gian rồi bị độc giả lãng quên với thời gian. Nhưng cũng có những bài thơ, quyển truyện có một sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc, có một sức hút kỳ lạ. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng là một tác phẩm như thế, một tác phẩm viết về tình cha con và nỗi đau trong chiến tranh đã đề lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Đọc xong tác phẩm này, có người đã nhận xét: “Truyện ngắn hiện đại mà âm vang như một truyện cổ tích với biết bao chi tiết, tình huống bất ngờ, kỳ diệu đã thể hiện tình cha con đằm thắm, bất diệt”.


Lời nhận xét trên là một lời nhận xét hay và thật đúng với truyện ngắn “Chiếc lược ngà”. Truyện có âm vang như truyện cổ tích, truyện đã xây dựng với nhiều chi tiết đặc sắn như: chi tiết vết thẹo, chi tiết chiếc lược ngà.. tất cả đã được xây dựng rất khéo léo, hợp lí góp phần làm nên thành công cho câu chuyện, thấy được tình cảm cha con thật đằm thắm, bất diệt. Đặc biệt tác giả thể hiện rõ tình cảm đó bằng việc xây dựng thành công hai tình huống bất ngờ: Hai cha con gặp nhau sau tám năm xa cách, nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận ra cha vì do cái vết thẹo trên má cha, đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm thắm thiết thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. Đây là tình huống cơ bản của truyện. Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn hết tình yêu thương và mong nhớ đứa con vào việc làm cây lược ngà để tặng con như đã hứa trước lúc lên đường nhưng ông Sáu đã hi sinh khi chưa kịp trao món quà ấy cho con gái yêu quý của mình. Nếu tình huống thứ nhất bộc lô tình cảm mãnh liệt của bé Thu đối với cha thì tình huống thứ hai lại bộc lộ tình cảm sâu sắc của người cha dành cho con.


Gặp lại con sau nhiều năm xa cách với bao nỗi nhớ thương nên ông Sáu không kìm được nỗi vui mừng trong phút đầu nhìn thấy cô con gái bé bỏng của mình, nhưng thật trớ trêu, đáp lại sự vồ vập của cha là thái độ ngờ vực, lảng tránh của bé Thu. Ông Sáu càng muốn gần con thì bé Thu càng tỏ ra lạnh nhạt, xa cách. Tâm lí và thái độ ấy của bé Thu đã được biểu hiện qua hàng loạt chi tiết mà người kể chuyện quan sát và thuật lại rất sinh động. Nó hốt hoảng, mặt tái đi rồi vụt chạy và kêu thét lên khi mới gặp anh Sáu. Trong những ngày ông Sáu ở nhà bé Thu chỉ gọi trống không mà ko chịu gọi cha. Nhất định không chịu nhờ ông giúp chắt nước nồi cơm to đang sôi, hất trứng cá mà ông gấp cho, cuối cùng khi bị ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà ngoại, khi xuống xuồng con cố ý khua dây cột xuồng kêu rộn ràng thật to.


Ta thấy bé Thu có hành động và thái độ như thế là ương ngạnh nhưng sự ương ngạnh này của bé Thu là hoàn toàn không đáng trách, là có nguyên do của nó. Trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá bé nhỏ để có thể hiểu được những tình thế khắc nghiệt, éo le của đời sống và người lớn cũng không ai kịp chuẩn bị cho nó đón nhận những khả năng bất thường nên nó không tin ông Sáu là cha nó chỉ vì trên khuôn mặt ông có thêm vết thẹo, khác với hình ba mà nó đã được biết qua tấm ảnh chụp chung với má. Phản ứng tâm lí của em là hoàn toàn tự nhiên, nó càng chứng tỏ bé Thu, tình cảm của em sâu sắc, chân thật, em chỉ yêu ba khi tin chắc đó đúng là ba. Trong cái cứng đầu của em có ẩn chứa cả sự kiêu hãnh trẻ thơ về một tình yêu dành cho người cha khác- người trong tấm hình chụp chung với má của em.


Buổi sáng cuối cùng trước khi ông Sáu lên đường, thái độ của bé Thu đột ngột thay đổi. Trong đêm bỏ về nhà ngoại, Thu đã được bà giải thích về vết thẹo. Bé hiểu ra, ân hận và hối tiếc vô cùng, chính chi tiết này đã tạo nên thắt nút, mở nút bất ngờ, hợp lí.


Phút chia tay “vẻ mặt nó sầm lại vì buồn rầu, cái vẻ buồn trên khuôn mặt ngây thơ của con bé trông thật dễ thương”. Khi ông Sáu nhìn con để chào từ biệt, “đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao”, tình cha con bị dồn nén bấy lâu chợt bùng lên mạnh mẽ, hối hả, cuống quýt. Nó thét lên gọi ba…ba… “tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa”. Hành động của Thu cũng thay đổi “Nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó nhảy thót lên dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”; “nó hôn ba cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ hôn vai, và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”; “Hai tay nó siết lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi cấu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run run”. Trong giờ phút chia tay với cha, tình yêu và nỗi nhớ với người cha xa cách đã bị dồn nén bấy lâu nay bày ra thật mạnh mẽ, xen lẫn cả sự hối hận. Phút chia li ấy thật đẹp, đẹp như cổ tích vậy


Ta thấy tình cảm của ông Sáu với con được thể hiện phần nào trong chuyến về phép thăm nhà. Khát khao mong muốn được gặp con, muốn được ôm con vào lòng, vuốt ve, âu yếm, thèm một tiếng gọi cha, quan tâm chăm sóc mặc dù đều bị con từ chối làm cho ông Sáu buồn bã, thất vọng. Nhưng tình cảm của người cha thể hiện thật sâu sắc ở phần sau của truyện khi ông Sáu ở tại khu căn cứ. Nỗi day dứt, ân hận, ám ảnh ông suốt nhiều ngày sau khi chia tay với gia đình là việc ông đã đánh con khi nóng giận, rồi lời dặn của con “Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba?” đã thúc đẩy ông nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà dành cho con. Anh cặm cụi “cưa từng răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như một người thợ bạc” để rồi khi chiếc lược hoàn thành, anh còn khắc lên đó dòng chữ nhỏ “Yêu nhớ tặng con Thu của ba”… Chiếc lược đã thành một vật quý giá, thiêng liêng với ông Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận và chứa đựng bao nhiêu tình cảm yêu mến, nhớ thương, mong đợi của người cha đối với con xa cách. Điều đó thật đẹp và thiêng liêng vô cùng.


Chủ đề của truyện không mới lạ, nhưng tác giả thành công bởi đã khai thác tình cảm cha con trong những tình huống éo le, cảm động. Cách lựa chọn ngôi kể, tạo lập tình huống bất ngờ mà tự nhiên , hợp lí cùng với việc miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc, đặc biệt là tâm lí trẻ thơ đã giúp cho văn bản có được vị trí ấn tượng trong lòng người đọc


Câu chuyện về “Chiếc lược ngà” đúng là một truyện ngắn hay, không chỉ nói lên tình cảm cha con thắm thiết, sâu sắc mà còn gợi cho người đọc suy ngẫm và thấm thía những mất mát và đau thương mà chiến tranh gây ra cho bao nhiêu gia đình. Từng tình huống, từng chi tiết thật bất ngờ, đã góp phần làm rõ tình cha con thật đẹp nhưng cũng rất éo le. Bởi vậy ta càng thêm trân trọng cuôc sống hòa bình mà chúng ta đang có ngày hôm nay.


(Bài làm của học sinh: Cao Thị Tiểu Ly, lớp 9 Trường THCS Hóa Hợp)


Giáo viên: Bùi Thị Ngọc Mai.


Email: [email protected]



Đề bài: Nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, có ý kiến cho rằng: “Với vài nét phác họa, các nhân vật trong Truyện Kiều đã hiện lên bằng xương bằng thịt, thật sinh động qua ngòi bút tài tình của Nguyễn Du”. Em hãy phân tích một số đoạn thơ miêu tả các nhân vật (đã học trong chương trình Ngữ Văn 9) làm sáng tỏ ý kiến trên.


Bài làm




Với “con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời”, Nguyễn Du đã xây dựng nên Truyện Kiều bằng những hình tượng nhân vật bất tử. Chỉ “với vài nét phác họa, các nhân vật trong Truyện Kiều đã hiện lên bằng xương bằng thịt, thật sinh động”. Ngòi bút ấy trân trọng nâng niu từng nét đẹp và hoạ lại thành những kiệt tác nhưng không quên lột trần, lên án cái xấu để tôn vinh cái đẹp. Xuất sắc nhất trong những họa phẩm của Truyện Kiều cũng như của nền văn học cổ điển Việt Nam chính là “hai chị em Thúy Kiều”:


Đầu lòng hai ả tố nga


Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân


Mai cốt cách, tuyết tinh thần


Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.



Ngay từ nét phác đầu tiên, danh họa Nguyễn Du đã để cho cái đẹp tự nhiên hiện ra. Người chưa xuất hiện mà vẻ đẹp đã rực rỡ không gian qua từ Hán Việt “tố nga”: hai cô gái với cốt cách đẹp như mai, tâm hồn trắng trong như tuyết…và xác định rõ ràng “mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”. Cha ông ta ngày xưa quan niệm cái đẹp là sự cân đối hài hòa. Vì thế, từng cặp lục bát cũng cân đối, nhẹ nhàng sóng đôi theo sự xuất hiện của nàng Vân:


Vân xem trang trọng khác vời


Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang


Hoa cười, ngọc thốt đoan trang


Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.



Vẽ nàng Vân nét cọ Nguyễn Du như được bao phủ bởi một làn sương sớm. Rất nhẹ, rất thanh tao mà vẫn tràn đầy sức sống. Khi vận dụng những công thức miêu tả

ước lệ của văn học cổ điển, Nguyễn Du đã chọn lọc ngôn từ tinh tế để xây dựng hình ảnh một Thúy Vân khuôn mặt phúc hậu, dáng người đầy đặn, từng nụ cười lời nói ngây thơ trên nền nhịp hai / hai/ hai êm đềm quen thuộc của ca dao. Ẩn dụ nhẹ nhàng, so sánh tinh tế cùng với hệ thống ngôn ngữ chọn lọc “hoa thua tuyết nhường”, Thúy Vân êm đềm và hiền lành hiện ra để được tất cả nhường đường cho nàng đi đến với hạnh phúc. Nhưng sao mãi vẫn chưa thấy cô chị Thúy Kiều? Tố Như quên trật tự phong kiến chăng? Hay đây là dụng ý nghệ thuật?


Kiều càng sắc sảo mặn mà


So bề tài sắc lại là phần hơn


Làn thu thủy, nét xuân sơn


Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.



Vậy ra Thúy Vân tuyệt sắc giai nhân chỉ là điểm tựa để làm nổi bật lên chân dung Thúy Kiều tuyệt đỉnh. Một lần nữa, những nét miêu tả ước lệ lại được Nguyễn Du chọn lọc để phác họa nàng Kiều qua nghệ thuật đòn bẩy độc đáo:


Làn thu thủy nét xuân sơn



Hai nét phác họa linh hoạt ấy đã làm hiện lên đôi mắt trên gương mặt của một giai nhân tuyệt thế: Thúy Kiều. Nhưng sao đôi mắt Thúy Vân lại không nhắc đến? Nguyễn Du vô tình ư? Một thiên tài đã từng tô màu da nhợt nhạt cho Tú Bà, mày râu nhẵn nhụi cho Mã Giám Sinh…,lại hờ hững với đôi mắt nàng Vân sao? Không, ông không quên và chắc hẳn nàng Vân phải có mắt. Đôi mắt ấy chắc hẳn phải rất đẹp, rất ngây thơ trong sáng để tương xứng với suối tóc như mây, nụ cười như hoa nở…Nhưng ông đã cố tình để Vân ngời mắt cho Thúy Kiều. Bởi suốt thi phẩm trường thiên âý, không một nhân vật nào được đặc ân có đôi mắt như Kiều. Đôi mắt trong xanh hơn mặt nước hồ thu, đẹp hơn dáng núi mùa xuân. Đôi mắt sâu thăm thẳm đã nhận ra một kiếp người đớn đau đằng sau tiết xuân mơn mởn, biết nhận ra người tri kỉ, kẻ gian ngoa, biết yêu thương và biết căm hờn. Đôi mắt đã khóc và đã đau khổ suốt mười lăm năm đoạn trường trong cảnh bùn nhơ, vậy mà vẫn sáng đẹp lạ lùng. Đó cũng chính là tâm hồn Kiều: nhân hậu, hiếu nghĩa, thủy chung, trong sạch trong mọi hoàn cảnh. Đôi mắt ấy ngay khi xuất hiện, đã mở ra một con đường đời đầy sóng gió, trầm luân. Tiếp thu và phát huy tinh hoa của bút pháp cổ điển, Nguyễn Du đã vẽ, đã ký thác trọn ven trái tim mình khi miêu tả nàng Kiều, một phụ nữ đẹp người, đẹp nết, tài sắc phẩm hạnh vẹn toàn như một bông hoa rực rỡ trong xã hội bất công với chế độ nam quyền khắc nghiệt.


Nếu xã hội nhìn người phụ nữ bằng con mắt khinh thường thì Tố Như đã đến với họ bằng đôi mắt xanh tri kỷ, đôi mắt tâm linh của một tài năng văn học. Chính vì lòng nhân đạo ấy, ông đã xây dựng nên những hình tượng sinh động khác trong Truyện Kiều mà ngời sang nhất là Từ Hải có một không hai:


Râu hùm hàm én mày ngài


Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao


Đường đường một đấng anh hào


Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.



Xưa nay, bức chân dung Từ Hải đã gánh chịu bao lời khen tiếng chê bởi đôi vai quá hẹp so với chiều cao, có lẽ vì Từ Hải là một nhân vật đặc biệt, một con nguời phi thường. Câu thơ “vai năm tấc rộng, thân mười thước cao” rất cân đối ấy đã đồng nghĩa với sự cân đối hài hòa giữa ngoại hình và tài năng. Và những “côn quyền – lược thao” đã trở thành “hơn sức gồm tài”. Từ Hải xuất hiện rực rỡ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du không còn là một Từ Hải hung bạo trong Kim Vân Kiều Truyện của Trung Hoa. Từ Hải của Nguyễn Du là một con người thâu tóm sức mạnh “đội trời đạp đất”, để nâng nàng





Kiều ra khỏi vũng bùn nhơ, giúp nàng đền ân báo oán, được sống trong sạch, hạnh phúc. Chàng đến như một ánh sao băng vụt sáng giữa bầu trời thăm thẳm tối đen của xã hội Đoạn trường tân thanh. Từng lời nói, từng nụ cười, từng hành động đều tỏa sang lấp lánh. Vượt thoát khỏi cuộc sống tầm thường nhỏ hẹp, Từ Hải là hình bóng của một ước mơ, là phần lãng mạn bù đắp cho hiện thực đau đớn của đời Kiều, là khát vọng công lí của Tố Như trong xã hội đầy rẫy bất công tàn ác. Ánh sao Từ Hải dù sớm tắt, nhưng những trang mà ánh sao ấy vụt qua là những trang hào hùng và rực sáng nhất của Truyện Kiều.


Ngược lại với Kiều, với Từ Hải đáng được trân trọng ngợi ca là những bộ mặt phản diện đáng bị lột trần, tố cáo. Hãy thử đọc hai câu thơ trong “Mã Giám Sinh mua Kiều”:


Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh


Hỏi quê, rằng: huyện Lâm Thanh cũng gần.



Bằng sự đột phá trong nhịp thơ hai /một /ba, Nguyễn Du đã truyền vào vần điệu lúc bát êm đềm của dân tộc ta sức mạnh lột tả hiện thực phi thường. Từng câu thơ bị ngắt mạnh như những câu trả lời cộc lốc, những cái hất hàm vô lễ, những hành động được diễn đạt thật tự nhiên nhưng tự nó đã nói lên tư cách thấp kém và phủ nhận danh phận “giám sinh” của gã họ Mã. Và đặc biệt ở cặp câu:


Quá niên trạc ngoại tứ tuần


Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.



Tố Như đã tinh tế sử dụng hàng loạt từ Hán Việt ở câu trên nhằm diễn tả sự trang trọng của độ tuổi để rồi xây dựng tự nhiên hệ thống ngôn ngữ thuần Việt ở câu dưới, mang đến sự đối lập bất ngờ và mạnh mẽ đến trơ trẽn của nhân vật này.


Ghế trên ngồi tót sỗ sàng



Vần trắc của từ “tót” gieo giữa câu thơ mang sức gợi tả cao, hiện ra con người lố bịch, đề hèn của Mã Giám Sinh. Và “tót” đã trở thành một trong những nhãn tự rực sáng nhất trong ngôn ngữ Truyện Kiều. Chỉ bằng vài câu thơ miêu tả ngắn gọn, bộ mặt đê hèn, bỉ ổi của một tên buôn thịt bán người đã lồ lộ hiện ra dưới bút lực thiên tài của Nguyễn Du. Càng cảm thương với nỗi đau bán mình của nàng Kiều, ta càng căm giận sục sôi bộ mặt xâú xa của Mã Giám Sinh – đại diện của xã hội đồng tiền thối nát thời cuối Lê sang Nguyễn.


Với những bức chân dung ấy, Truyện Kiều đã hung hồn khẳng định sức mạnh của tiếng nói, ngôn ngữ Việt Nam, nét đẹp của tâm hồn người Việt Nam qua tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du. (Hết)


(Bài làm sưu tầm từ sách “Tuyển chọn đề và bài văn đạt giải”của nhóm tác giả Thái Quang Vinh – Trang Minh Tuấn – Thảo Bảo Mi, nhà xuất bản Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh)







Giáo viên: Nguyễn Hồ Hải Đơn vị: THCS Tân Trung


Email: [email protected]





Đề bài: Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ cùa Thanh Hải


Bài làm


Nhà thơ Tố Hữu có viết:


Nếu là con chim, chiếc lá;


Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh;


Lẽ nào vay mà không có trả;


Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”.



Đó là quan niệm sống đẹp, sống để cống hiến cho đất nước, sống có ích, sống phải biết làm một việc gì dù nhỏ nhưng có ích cho XH, cho mọi người. Điều đó được nhà thơ Thanh Hải tiếp tục thể hiện trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” . Đây là món quà cuối cùng mà Thanh Hải dâng tặng cho đời trước lúc về cõi vĩnh hằng. Chính vì vậy nó bâng khuâng, tha thiết và sâu lắng hơn tất cả để cuối cùng thể hiện một Thanh Hải yêu người, yêu cuộc sống, yêu quê hương đất nước và còn là một Thanh Hải sống cho thơ và sống cho đời.


Trước lúc vĩnh viễn ra đi ông cũng để lại cho đời những vần thơ thật nhân hậu, thiết tha và thanh thản, không hề gợn một nét u buồn nào của một cuộc đời sắp tắt. Khi cuộc đời mình đã bước vào cuối đông, nhà thơ vẫn nghĩ đến một mùa xuân bất diệt, muôn thuở và nguyện dâng hiến cho đời.


Hình ảnh của một mùa xuân rất Huế đã được tác giả mở đầu cho bài thơ:


"Mọc giữa dòng sông xanh


Một bông hoa tím biếc.


Ơi con chim chiền chiện

Hót cho mà vang trời,


Từng giọt long lanh rơi,


Tôi đưa tay tôi hứng”.



Một nét đặc trưng nơi xứ Huế là hình ảnh màu tím. Một màu tím thật gợn nhẹ như màu tím hoa sim mọc giữa con sông xanh biếc hay như những tà áo dài với màu tím thật nhẹ nhàng của những cô gái Huế. Cảm xúc về mùa xuân mở ra thật ngỡ ngàng, bất ngờ, không gian như tươi tắn hơn, trẻ trung hơn, thánh thoát hơn:


"Ơi con chim chiền chiện


Hót cho mà vang trời,


Từng giọt long lanh rơi,


Tôi đưa tay tôi hứng”.



Trong không gian vang vang vui tươi của tiếng chim càng đậm đà chất Huế hơn nhờ dùng đúng chỗ những ngôn từ đặc trưng xứ Huế. Một từ "Ơi” đặt ở đầu câu, một từ "chi” đứng sau động từ "hát” đã đưa cách nói ngọt ngào, thân thương của Huế vào nhạc điệu của thơ. Từ "giọt” được hiểu theo rất nhiều nghĩa: có thể là "giọt nắng bên thềm”, giọt mưa xuân, giọt sương sớm hay cả tiếng hót của những chú chim chiền chiện. Nhưng đối với khung sắc trời xuân thì giọt xuân càng làm tăng thêm vẻ đẹp và sự quyến rũ của nó. Một từ "hứng” cũng đủ diễn tả sự trân trọng của nhà thơ đối với vẻ đẹp của trời, của sông, của chim muông hoa lá; đồng thời cũng thể hiện cảm xúc trọn vẹn của Thanh Hải trước mùa xuân của thiên nhiên đất trời.


Từ mùa xuân của thiên nhiên đất trời, tác giả đã chuyển cảm nhận về mùa xuân của cuộc sống, nhân dân và đất nước. Với hình ảnh "người cầm súng” và "người ra đồng”,

biểu tượng của hai nhiệm vụ: chiến đấu bảo vệ tổ quốc và lao động tăng gia để xây dựng đất nước với những câu thơ giàu hình ảnh và mang tính gợi cảm:


"Mùa xuân người cầm súng,


Lộc giắt đầy trên lưng.


Mùa xuân người ra đồng,


Lộc trãi dài nương mạ.


Tất cả như hối hả,


Tất cả như xôn xao…”



Hình ảnh mùa xuân của đất trời đọng lại trong lộc non đã theo người cầm súng và người ra đồng, hay chính họ đã đem mùa xuân đến cho mọi miền của tổ quốc thân yêu. Tác giả đã sử dụng biện pháp điệp từ, điệp ngữ như nhấn mạnh và kết thúc một khổ thơ bằng dấu ba chấm. Phải chăng dấu ba chấm như còn muốn thể hiện rằng: đất nước sẽ còn đi lên, sẽ phát triển, sẽ đến với một tầm cao mới mà không có sự dừng chân ngơi nghỉ.


Sức sống của "mùa xuân đất nước” còn được cảm nhận qua nhịp điệu hối hả, những âm thanh xôn xao của đất nước bốn ngàn năm, trải qua biết bao vất vả và gian lao để vươn lên phía trước và mãi khi mùa xuân về lại được tiếp thêm sức sống để bừng dậy, được hình dung qua hình ảnh so sánh rất đẹp:


"Đất nước bốn ngàn năm


Vất và vào gian lao


Đất nước như vì sao


Cứ đi lên phía trước”


Đó chính là lòng tự hào, lạc quan, tin yêu của Thanh Hải đối với đất nước, dân tộc.


Những giọng thơ ấy rất giàu sức suy tưởng và làm say đắm lòng người.


Từ cảm xúc của thiên nhiên, đất nước, mạch thơ đã chuyển một cách tự nhiên sang bày tỏ suy ngẫm và tâm niệm của nhà thơ trước mùa xuân của đất nước. Mùa xuân của thiên nhiên, đất nước thường gợi lên ở mỗi con người niềm khát khao và hi vọng; với Thanh Hải cũng thế, đây chính là thời điểm mà ông nhìn lại cuộc đời và bộc bạch tâm niệm thiết tha của một nhà cách mạng, một nhà thơ đã gắn bó trọn đời với đất nước, quê hương với một khát vọng cân thành và tha thiết:


"Ta làm con chim hót,


Ta làm một cành hoa.


Ta nhập vào hoà ca,


Một nốt trầm xao xuyến”



Lời thơ như ngân lên thành lời ca. Nếu như đoạn đầu Thanh Hải xưng tôi kín đáo và lặng lẽ thì đến đoạn này ông chuyển giọng xưng ta. Vì sao có sự thay đổi như vậy? Ta


  • đây là nhà thơ và cũng chính là tất cả mọi người. Khát vọng của ông là được làm con chim hót, một cành hoa để hoà nhập vào "mùa xuân lớn” của đất nước, góp một nốt trầm vào bản hoà ca bất tận của cuộc đời. Hiến dâng "mùa xuân nho nhỏ” nghĩa là tất cả những gì tốt đẹp nhất, dù nhỏ bé của mỗi người cho cuộc đời chung cho đất nước.


Điều tâm niệm đó thật chân thành, giản dị và tha thiết – xin được làm một nốt trầm trong bản hoà ca của cuộc đời nhưng là "một nốt trầm xao xuyến”.


Điều tâm niệm của tác giả: "lặng lẽ dâng cho đời” chính là khát vọng chung của mọi người, ở mọi lứa tuổi, chứ đâu phải của riêng ai. Thanh Hải đã thể hiện hết mình vì lòng tin yêu cuộc sống và khiêm tốn hiến dâng cho đất nước, cho cuộc đời, bởi vậy, xuất phát







từ tiếng lòng thiết tha, nhỏ nhẹ, chân thành của tác giả nên lời thơ dễ dàng được mọi người tiếp nhận và chia sẻ cho nhau:


"Một mùa xuân nho nhỏ


Lặng lẽ dâng cho đời


Dù là tuổi hai mươi


Dù là khi tóc bạc”.



Đã gọi là cống hiến cho đời thì dù ở tuổi nào đi chăng nữa cũng phải luôn biết cố gắng hết tâm trí để phục vụ và hiến dâng cho quê hương, đất nước mến yêu của chính mình. Già - cống hiến tuổi già, trẻ - cống hiến sức trẻ để không bao giờ thất vọng trước chính bản thân mình.


Thật cảm động và kính phục biết bao khi đọc những vần thơ như lời tổng kết của cuộc đời. "Dù là tuổi hai mươi” khi mới tham gia kháng chiến cho đến khi tóc bạc là thời điểm hiện thời vẫn lặng lẽ dâng hiến cho đời và bài thơ này là một trong những bài thơ cuối cùng. "Một mùa xuân nho nhỏ” cuối cùng của Thanh Hải dâng tặng cho đời trước lúc ông bước vào thế giới cực lạc, chuẩn bị ra đi mãi mãi.


Kết thúc bài thơ bằng một âm điệu xứ Huế: điệu Nam ai, Nam Bình mênh mang tha thiết, là lời ngợi ca đất nước, biểu hiện niềm tin yêu và gắn bó sâu nặng của tác giả với quê hương, đất nước, một câu chân tình thắm thiết


"Mùa xuân ta xin hát


Câu Nam ai, Nam Bình


Nước non ngàn dặm tình


Nước non ngàn dặm mình


Nhịp phách tiền đất Huế”



Tóm lại bài thơ đã sử dụng thể thơ năm chữ, mang âm hưởng dân ca nhẹ nhàng tha thiết, giàu hình ảnh, nhạc điệu, cất trúc thơ chặt chẽ, giọng điệu đã thể hiện đúng tâm trạng, cảm xúc của tác giả. Nét đặc sắc của bài thơ là ở chỗ nó đề cập đến một vấn đề lớn và quan trọng "nhân sinh”, vấn đề ý nghĩa cuộc sống của mỗi cá nhân được Thanh Hải thể hiện một cách chân thành, thiết tha, bằng giọng văn nhỏ nhẹ như một lời tâm sự, gửi gắm của mình với cuộc đời. Nhà thơ ước nguyện làm một "mùa xuân” nghĩa là sống đẹp, sống với tất cả sức sống tươi trẻ của mình nhưng rất khiêm nhường; là "một mùa xuân nho nhỏ” góp vào "mùa xuân lớn” của đất nước của cuộc đời chung và bài thơ cũng có ý nghĩa hơn khi Thanh Hải nói về "mùa xuân nho nhỏ” nhưng nói được tình cảm lớn, những xúc động của chính tác giả và của cả chúng ta.




GV: Đoàn T Minh Huyền


Email: [email protected]






Đề bài số 1:


Phân tích tình cảm cha con trong bài thơ : “Nói với con” của Y Phương.




Bài làm



Tình cảm gia đình, tình yêu đối với quê hương xứ sở là những tình cảm nguyên sơ nhưng cũng thiêng liêng nhất của con người Việt Nam. Lòng yêu thương con cái, ước mong thế hệ sau nối tiếp xứng đáng truyền thống của tổ tiên, dân tộc, quê hương là sự

thể hiện cụ thể của tình cảm cao đẹp đó. Nhiều nhà thơ đã giãi bày những sắc thái tình cảm ấy lên trang giấy. Chúng ta bắt gặp trong bài thơ “nói với con” của tác giả Y Phương một cách diễn đạt mộc mạc, chân chất của người miền núi những lời tâm tình thiết tha, những lời dặn dò ân cần, chia sẻ của người cha đối với con lòng tự hào về con người và quê hương yêu dấu của mình.


Mở đầu bài thơ, bằng những lời tâm tình với con, Y Phương đã gợi về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người. Cội nguồn của hạnh phúc con người chính là gia đình và quê hương - cái nôi êm để từ đó con lớn lên, trưởng thành với những nét đẹp trong tình cảm, tâm hồn. Phải chăng đó là điều đầu tiên người cha muốn nói với đứa con của mình.


Ngay từ bốn câu thơ đầu tiên người cha đã gợi ra một hình ảnh đầm ấm của gia đình qua cách nói thật lạ:


Chân phải/ bước tới cha


Chân trái/ bước tới mẹ


Một bước / chạm tiếng nói


Hai bước / tới tiếng cười.



Nhịp thơ 2/ 3, cấu trúc đối xứng, nhiều từ được láy lại, tạo ra một âm điệu tươi vui, quấn quýt: chân phải - chân trái , rồi một bước - hai bước , rồi lại “tiếng nói - tiếng cười”….


Ta rất dễ hình dung một hình ảnh cụ thể thường gặp trong đời sống: đứa con đang tập đi, cha mẹ vây quanh mừng vui, hân hoan theo mỗi bước chân con. Từng bước đi, từng tiếng nói, tiếng cười của con đều được cha mẹ chăm chút, nâng niu, đón nhận. Cả ngôi nhà như rung lên trong “tiếng nói, tiếng cười” củ cha, của mẹ. Tuy nhiên, đằng sau lời nói cụ thể đó, tác giả muốn khái quát một điều lớn hơn: con sinh ra trong hạnh phúc (cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới. Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời) và lớn lên bằng tình yêu thương, trong sự nâng đón, vỗ về, mong chờ của cha mẹ. Những hình ảnh ấm êm với cha và mẹ, những âm thanh sống động, vui tươi với tiếng nói tiếng cười là những biểu hiện của một không khí gia đình đầm ấm, quấn quýt, hạnh phúc tràn đầy. Hình ảnh ấm lòng này muôn thuở vẫn là khát vọng hạnh phúc của con người. Đó sẽ là hành trang quý báu đối với cuộc đời, tâm hồn con.


Bên cạnh tình cảm gia đình thắm thiết, hạnh phúc, quê hương thơ mộng nghĩa tình và cuộc sống lao động trên quê hương cũng giúp con trưởng thành, giúp tâm hồn con được bồi đắp thêm lên.


  • khổ thơ tiếp theo này, tác giả đã sử dụng những cách nói, những hình ảnh của


người miền núi - nơi sinh dưỡng của chính mình - để nói những điều chân thực về quê hương rừng núi:


Người đồng mình yêu lắm con ơi!


Đan lờ cài nan hoa


Vách nhà ken câu hát.”



Y Phương có cách gọi rất độc đáo về những con người quê hương: “người đồng mình”, một cách gọi rất gần gũi và thân thương. Cách gọi ấy gắn liền với lời đối thoại tha thiết “con ơi”.


Người cha đã có cách lí giải rất cụ thể của người dân tộc khiến người con có thể hiểu được: Người đồng mình đáng yêu như thế nào. Họ sống rất đẹp. Cuộc sống lao động cần cù và tươi vui của “người đồng mình” - người bản mình- người buôn làng mình được gợi lên qua các hình ảnh đẹp, đậm sắc màu dân tộc. Họ làm một cách nghệ thuật từ cá dụng cụ lao động để bắt cá thường ngày : “đan lờ cài nan hoa”. Trong căn nhà của họ, lúc nào cũng vang lên tiếng hát: “vách nhà ken câu hát”. Những động từ “đan, ken, cài” rất gợi cảm bên cạnh giúp cho người đọc hình dung được những công việc cụ thể của con người trên quê hương còn gợi ra tính chất gắn bó, hoà quyện, quấn quýt của con người và của quê hương, xứ sở.


Cuộc sống lao động ấy, sinh hoạt gia đình đầy niềm vui ấy được đặt trong cả một quê hương giàu đẹp, nghĩa tình. Quê hương của “người đồng mình” với hình ảnh rừng, một hình ảnh gắn liền với cảnh quan miền núi:


Rừng cho hoa


Con đường cho những tấm lòng”.



Nếu như hình dung về một vùng núi cụ thể, chắc hẳn mỗi người có thể gắn nó với những hình ảnh khác cách nói của Y Phương: là thác lũ, là bạt ngàn cây hay rộn rã tiếng chim thú hoặc cả những âm thanh “gió gào ngàn, giọng nguồn thét núi”, những bí mật của rừng thiêng….. Nhưng Y Phương chỉ chọn một hình ảnh thôi, hình ảnh “hoa” để nói về


cảnh quan của rừng. Nhưng hình ảnh ấy có sức gợi rấ lớn, gợi về những gì đẹp đẽ và tinh tuý nhất. Hoa trong “Nói với con” có thể là hoa thực - như một đặc điểm của rừng - và khi đặt trong mạch của bài thơ, hình ảnh này là một tín hiệu thẩm mĩ góp phần diễn đạt điều tác giả đang muốn khái quát: chính những gì đẹp đẽ của quê hương đã hun đúc nên tâm hồn cao đẹp của con người ở đó. Quê hương còn hiện diện trong những gì gần gũi, thân thương với con. Đó cũng chính là một nguồn mạch yêu thương vẫn tha thiết chảy trong tâm hồn mỗi người, bởi “con đường cho những tấm lòng”. Điệp từ “cho” mang nặng nghĩa tình. Thiên nhiên đã che chở, nuôi dưỡng, bồi đắp tâm hồn cũng như lối sống của con người.


Bằng cách nhân hoá “rừng” và “con đường” qua điệp từ “cho”, người đọc có thể nhận ra lối sống tình nghĩa của “người đồng mình” Quê hương ấy chính là cái nôi để đưa con vào cuộc sống êm đềm.


Người đồng mình không chỉ “yêu lắm” với những hình ảnh đẹp đẽ, giản dị gợi nhắc cội nguồn sinh dưỡng tâm hồn, tình cảm, lối sống cho con người mà còn với những đức tính cao đẹp, đáng tự hào. Trong cái ngọt ngào kỉ niệm gia đình và quê hương, người cha đã tha thiết nói với con về những phẩm chất cao đẹp của con người quê hương.


Tổ hợp từ “người đồng mình” được lặp lại ba lần đã gây ấn tượng không phai mờ về con người quê hương. Lời gọi con thật tha thiết, lời nhắn nhủ thật chân thành: “Người đồng mình thương lắm con ơi!”


Đoạn thơ bắt đầu bằng cảm xúc “thương lắm con ơi”, đó là tình cảm yêu thương, yêu thương một cách xót xa. Người cha đã lần lượt ngợi ca những phẩm chất dễ thương của “người đồng mình”với cách nói vừa rất cụ thể của người dân miền núi: “Cao đo nỗi buồn. Xa nuôi chí lớn” vừa mang sức khái quát. Lấy sự từng trả (buồn) để đo chiều cao, lấy chí lớn để đánh giá độ xa.


Những hình ảnh cụ thể của thiên nhiên như : “sông, suối, thác, ghềnh” đã được người cha dùng với tính chất biểu trưng cho khó khăn, gian khổ vá sức mạnh vượt khó khăn gian khổ của những con người của quê hương.


Người đồng mình không sợ gian khổ, nghèo đói. Sự chấp nhận gian khổ ấy thể hiện trong điệp ngữ “không chê”, “không lo” và cách nói tha thiết: “vẫn muốn”. Và ông đã tự ví “người đồng mình”mạnh mẽ, hồn nhiên như sông như suối qua các hình ảnh cụ thể “đá, thung, những thác những ghềnh …, dù có lên thác, xuống ghềnh vẫn không nhụt chí khí. Cặp từ trái nghĩa “lên, xuống” đã làm mạnh thêm sự diễn đạt này. Dù quê hương vất vả, nhọc nhằn, dù “người đồng mình” có thể có nỗi đau buồn rất lớn nhưng những người con của quê hương không bao giờ quay lưng lại với nơi mình đã từng chôn rau, cắt rốn, cha mẹ đã từng cáy xới vun trồng. Và phải chăng chính cuộc sống nhọc nhằn đầy nỗi khổ đau ấy lại khiến cho “chí lớn” thêm lên, thêm mãnh liệt?


Gửi trong những lời tự hào không dấu giếm đó, người cha ước mong, hy vọng người con phải tiếp nối, phát huy truyền thống để tiếp tục sống có tình có nghĩa, thuỷ chung với quê hương đồng thời muốn con biết yêu quý, tự hào với truyền thống của quê hương.




Phẩm chất của con người quê hương còn được người cha ca ngợi qua cách nói đối lập tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong nhưng rất đúng với người miền núi:


Người đồng mình thô sơ đa thịt. Chẳng mấy ai nhỏ bé được đâu con


Đó là những con người sống giản dị mà mạnh mẽ, hồn nhiên mà mộc mạc. Người miền núi tuy có thể mộc mạc, thô sơ da thịt, có thể không biết nói khéo, không biết nói hay… nhung ý nghĩ của họ, phẩm chất của họ thì thật là cao đẹp. Chính cái hồn nhiên mộc mạc ấy lại chứa đựng sức sống mạnh mẽ của dân tộc ; giầu chí khí, niềm tin, không hề nhỏ bé về tâm hồn, về ý chí và đặc biệt là khát vọng xây dựng quê hương. Ý chí và mong ước ấy được cô đúc trong hai câu thơ vừa có hình ảnh cụ thể lại vừa hàm chứa ý nghĩa sâu sắc:


Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương


Còn quê hương thì làm phong tục.




Việc “ đục đá” là khó, là đòi hỏi nghị lực, nhưng người quê hương ta đã làm,vẫn làm dể làm rạng rỡ quê hương. Chính những đức tính tốt đẹp cùng với sự lao động cần cù, nhẫn nại hàng ngày đã tạo nên sức mạnh để làm nên quê hương với truyền thống với phong tục tập quán tốt đẹp. Người cha đã tâm sự với con về tất cả những gì tốt đẹp nhất của người quê hương, nơi con đang sinh sống, cái nôi đang nuôi con khôn lớn, trưởng thành.


Nói với con là lời thủ thỉ tâm tình của người cha với con về quê hương, 1 quê hương nhọc nhằn vất vả đã nuôi dưỡng chí lớn cho những đứa con. Quê hương với sức sống giản dị mà mãnh liệt, hồn nhiên mà mạnh mẽ. Tất cả được thể hiện qua thể thơ tự do với những từ ngữ, hình ảnh mộc mạc, cụ thể nhưng lại có sức khái quát sâu sắc. Gửi trong những lời tự hào không dấu giếm đó, người cha ước mong, hy vọng người con phải tiếp nối, phát huy truyền thống để tiếp tục sống có tình có nghĩa, thuỷ chung với quê hương đồng thời muốn con biết yêu quý, tự hào với truyền thống của quê hương.


Không chỉ gửi mong ước của mình đầy tự hào, kết thúc bài thơ, người cha còn bộc lộ trực tiếp niềm mong ước này trong lời thủ thỉ dặn dò con thiết tha, chân tình, trìu mến trong tiếng gọi “con ơi!” và lời nhắn nhủ “nghe con”. Song cái điều người cha nói với con thì thật là ngắn gọn, hàm súc mà sâu sắc, đồng thời lại có chút nghiêm nghị của mệnh lệnh trái tim:


Con ơi tuy thô sơ da thịt


Lên đường


Không bao giờ nhỏ bé được


Nghe con.




Câu thơ ngắn lại như khắc sâu, có câu chỉ có hai tiếng. Điều mà người cha muốn khuyên con qua cách nhắc lại một phẩm chất của người đồng mình đã nêu ở trên: nghĩa là phải sống cho cao đẹp. Trong những lời thơ cuối cùng ấy, người cha dặn dò con cần tự tin mà vững bước trên đường đời, tiếp nối những truyền thống tốt đẹp của “người đồng mình”.Con sống được như thế chính là con phát huy được truyền thống tốt đẹp của cha ông, của quê hương yêu dấu.


Bài thơ “Nói với con” của Y Phương giúp chúng ta cảm nhận vẻ đẹp của một áng thơ về tình cha con cao quý, xúc động, góp thêm một tiếng nói yêu thương của cha mẹ đối với con cái cũng như những kì vọng lớn lao, mong muốn thế hệ sau sẽ kế tục, phát triển những truyền thống quý báu của quê hương. Bằng cách diễn đạt mộc mạc, thô sơ, bằng những hình ảnh cụ thể mà giàu sức khái quát bài thơ đã thể hiện một cách độc đáo mà cũng thật thấm thía về tình cảm thiết tha sâu sắc nhất của con người : tình cảm gia đình và tình yêu quê hương xứ sở. Trong lòng ta như ngân lên câu hát: “Ba sẽ là cánh chim. Cho con bay thật xa…. Ba sẽ là lá chắn. Che chở suốt đời con….”.





----------------------------------------------------------------------



Giáo viên: Đoàn T Minh Huyền


Gmail: [email protected]






Đề bài số 2: Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải






Bài làm




Mùa xuân từ lâu đã là đề tài vô tận cho các thi sĩ. Nhưng hiếm có bài thơ nào viết về mùa xuân lại hay và trong hoàn cảnh đặc biệt như “mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải, nhà thơ của xứ Huế mộng mơ. Bài thơ “mùa xuân nho nhỏ” được sáng tác năm 1980, khi tác giả đang nằm trên giường bệnh và chỉ mấy tuần lễ sau khi hoàn thành bài thơ thì nhà thơ đã qua đời. Đây là một bài thơ hay tiêu biểu cho hồn thơ Thanh Hải đã thể hiện được “tâm nguyện thật thiết tha, cảm động của nhà thơ Thanh Hải với đất nước, với cuộc đời”.


Cảm hứng xuân phơi phới của Thanh Hải đã dệt nên một bức tranh mùa xuân thiên nhiên tươi đẹp, hiền hoà, đầy sức sống của xứ Huế mộng mơ.


Mọc giữa dòng sông xanh


…………


Tôi đưa tay tôi hứng



Xứ Huế đã đi vào trong thi ca của không ít các thi nhân như Hàn Mạc Tử, Tố Hữu… nhưng ở đây với bài thơ này ta vẫn cảm nhận được phong vị rất riêng của Thanh




Hải. Bức tranh xuân ấy hiện lên rất ít chi tiết nhưng vẫn đẹp, một vẻ đẹp hoàn thiện với đầy đủ sắc màu, âm thanh và đường nét. Có một dòng sông xanh hiền hoà, mênh mang làm nền cho sắc tím của bông hoa, màu tím của xứ Huế thơ mộng, của nhớ nhung đã tạo nên cảm giác mát dịu làm sao! Nghệ thuật đảo ngữ càng làm nổi bật vẻ đẹp của bông hoa. Bông hoa ấy mọc từ giữa dòng sông như tâm điểm của một bức tranh đầy ấn tượng. Bông hoa ấy như phát sinh, khởi nguồn từ cái sức sống dồi dào, bất tận của dòng sông xanh để không ngừng vươn lên bất tử. Bức tranh ấy càng sống động hơn bởi âm thanh của tiếng chim chiền chiện quen thuộc của quê hương miền trung. Tiếng chim ấy hót vang bên trời cao, tiếng hót trong trẻo, ngân nga, rộn ràng có độ lan tỏa không dứt, làm cho không khí của mùa xuân trở nên náo nức lạ thường.


Hãy đọc lại khổ thơ đầu và lắng nghe trong đó: có phải là nhạc và thơ đã hoà quyện vào từng chữ, từng dòng trong cả khổ thơ, đem đến môt giai điệu mùa xuân vui tươi, rạo rực ? Nhà thơ lặng ngắm, lắng nghe với vẻ say mê và tấm lòng tràn đầy một cảm xúc thanh cao trong sáng. Bằng sự cảm nhận tinh tế của một tâm hồn nghệ sĩ, nhà thơ đã tạo dựng được một hình ảnh tuyệt đẹp, gợi ra sự liên tưởng phong phú cho người đọc về âm thanh của tiếng chim. Âm thanh mượt mà, trong vắt của tiếng chim thánh thót như chuỗi ngọc long lanh, đọng lại làm thành từng giọt niềm vui, rơi xuống cõi lòng rộng mở của thi sĩ, thấm vào tâm hồn đang rạo rực tình xuân. Như vậy từ một hình tượng, một sự vật được cảm nhận bằng âm thanh ( thính giác), tác giả đã chuyển đổi biến nó thành một sự vật có thể nhìn được bằng mắt ( thị giác) bởi nó có hình khối, màu sắc rồi lại được như cảm nhận nó bằng da thịt, bằng sự tiếp xúc ( xúc giác). Sự chuyển đổi cảm giác ấy là một sáng tạo nghệ thuật gợi cảm từ con mắt nhìn rất thơ của thi sĩ. Hình ảnh đưa tay “hứng” xiết bao yêu quý, nâng niu đã thể hiện được sự đồng cảm của tâm hồn nhà thơ trước thiên nhiên và cuộc đời.






Trong mùa xuân lớn ấy, đất nước và con người cũng mang vẻ đẹp của sức sống vô tận, rộn ràng bước vào một mùa xuân mới:


Mùa xuân người cầm súng


……


Lộc trải dài nương mạ



Lộc xuân theo người cầm súng, lộc xuân trải dài nương mạ. Hình ảnh dân tộc Việt Nam kết tụ lại ở “người cầm súng” và “người ra đồng”. Đây là mùa xuân của con người đang lao động và chiến đấu, của đất nước vất vả gian lao đang đi lên phía trước. Câu thơ vừa tả thực vừa tượng trưng hàm chứa nhiều ý nghĩa trong hình ảnh người lính và người nông dân với từ “lộc” nhiều nghĩa. “Lộc” là chồi non, lá non, nhưng “lộc” còn có nghĩa là mùa xuân, là sức sống, là thành quả hạnh phúc. Người cầm súng giắt lộc để nguỵ trang như mang theo sức xuân vào trận địa, người ra đồng như gieo mùa xuân trên từng nương mạ. Những con người lao động chiến đấu ấy đã mang cả mùa xuân ra trận địa của mình để gặt hái mùa xuân về cho đất nước. Âm hưởng thơ hối hả, khẩn trương với nhiều điệp từ, điệp ngữ láy lại ở đầu câu cùng với các tính từ “hối hả”, “xôn xao” làm tăng thêm sức xuân phơi phới, mãnh liệt trong mỗi con người và trong cả cộng đồng rộng lớn là dân tộc. Điều đó làm cho tác giả nhớ đến niềm tự hào lớn lao của đất nước:


Đất nước bốn nghìn năm


……


Cứ đi lên phía trước”



Đất nước đang bước vào mùa xuân, từ thiên nhiên đến con người đều hối hả và xôn xao. Mang tình sông núi, nhà thơ Thanh Hải đã có một cái nhìn sâu sắc và tự hào

về chiều dài lịch sử bốn nghìn năm của đất nước.Đó là truyền thống anh hùng trong đánh giặc, cần cù trong dựng xây, là truyền thống nhân ái, là khát vọng hòa bình. Mỗi truyền thống ấy đều được xây đắp nên từ mồ hôi, công sức, nước mắt và thậm chí cả xương máu của biết bao thế hệ con người. Trong quá trình xây dựng và giữ nước, đất nước ta còn đầy vất vả và gian lao nhưng đất nước Việt Nam vẫn ngời sáng cứ tiến lên phía trước như một vì sao sáng. Vần thơ so sánh và nhân hoá thể hiện một niềm tin sáng ngời, ngợi ca đất nước tráng lệ, trường tồn. Ba tiếng “cứ đi lên” đã thể hiện ý chí quyết tâm và niềm tin sắt đá của dân tộc để xây dựng đất nước giàu và mạnh.


Đặt bài thơ vào những năm 80 khi nước ta còn đang phải đương đầu với bao khó khăn, nền kinh tế còn rất thấp kém thì ta càng trân trọng lòng yêu đời, yêu cuộc sống và niềm tin của nhà thơ Thanh Hải vào quê hương, đất nước.


Xúc cảm trước mùa xuân của thiên nhiên, của đất nước, nhà thơ muốn góp một mùa xuân nho nhỏ của mình để làm nên một mùa xuân lớn, mùa xuân của thiên nhiên, mùa xuân của đất nước, mùa xuân của cách mạng:


Ta làm con chim hót


Ta làm một nhành hoa


Ta nhập vào hoà ca


Một nốt trầm xao xuyến



Đó là khát vọng sống hoà nhập vào cuộc sống của đất nước, cống hiến phần tốt đẹp, dù nhỏ bé, của mình cho cuộc đời chung, cho đất nước. Điều tâm niệm ấy được thể hiện một cách chân thành trong những hình ảnh tự nhiên giầu sức gợi tả, gây xúc động sâu xa trong lòng người đọc. Ước nguyện được làm một tiếng chim, một cành hoa để góp vào vườn hoa muôn hương muôn sắc, rộn rã tiếng chim, để đem lại hương sắc, tô điểm cho mùa xuân thêm tươi đẹp. Nhà thơ nguyện cầu được làm một “nốt trầm xao xuyến” không ồn ào, không cao điệu mà chỉ âm thầm, lặng lẽ để “nhập”vào khúc ca, tiếng hát của nhân dân vui mừng đón xuân về. Được tô điểm cho mùa xuân, được góp phần tạo dựng mùa xuân là tác giả đã nguyện hi sinh, nguyện cống hiến cho sự phồn vinh của đất nước. Một ước mơ nho nhỏ, chân tình, không cao siêu vĩ đại mà gần gũi quá, khiêm tốn và đáng yêu quá ! Hình ảnh nhuần nhị, tự nhiên, chân thành, giọng thơ nhè nhẹ, êm ái , ngọt ngào của những thanh bằng liên tiếp kết hợp với cách cấu tứ lặp lại như vậy đã mang một ý nghĩa mới nhấn mạnh thêm mong ước được sống có ích cho đời, cống hiến cho đất nước như một lẽ tự nhiên. Điệp từ “ta” như một lời khẳng định, vừa như một tiếng lòng, như một lời tâm sự nhỏ nhẹ, chân tình. Ước nguyện đó đã được đẩy lên cao thành một lẽ sống cao đẹp, không chỉ cho riêng nhà thơ mà cho tất cả mọi người, cho thời đại của chúng ta. Đó là lẽ sống cống hiến cho đời lặng lẽ, khiếm tốn, không kể gì đến tuổi tác:


Một mùa xuân nho nhỏ


Lặng lẽ dâng cho đời


Dù là tuổi hai mươi


Dù là khi tóc bạc.



Thái độ ‘lặng lẽ dâng cho đời” nói lên ý nguyện thật khiêm nhường nhưng hết sức bền bỉ và vô cùng đáng quý vì đó là những gì tốt đẹp nhất trong cuộc đời. Thật cảm động làm sao trước ao ước của nhà thơ dẫu đã qua tuổi xuân của cuộc đời, vẫn được làm một mùa xuân nhỏ trong cái mùa xuân lớn lao ấy. Điệp ngữ “dù là” ở đây như một lời tự khẳng định để nhủ với lương tâm sẽ phải kiên trì, thử thách với thời gian tuổi già, bệnh tật để mãi mãi làm một mùa xuân nho nhỏ trong mùa xuân rộng lớn của quê hương đất nước. Giọng thơ vẫn nhỏ nhẹ, chân tình nhưng mang sức khái quát lớn.


Chính vì vậy, hình ảnh “mùa xuân nho nhỏ” ở cuối bài như ánh lên, toả sức xuân tâm hồn trong toàn bài thơ.


Những câu thơ cuối cùng mang đậm dấu ấn của những làn điệu dân ca trữ tình xứ Huế. Nó như tiếng tâm tình, thủ thỉ, như tiếng lòng sâu lắng thiết tha, nồng đậm nghĩa tình:


Mùa xuân ta xin hát


Câu Nam Ai, Nam Bình


Nước non ngàn dặm


Nhịp phách tiền đất Huế



Cùng với ý nguyện ấy, khúc Nam Ai, Nam Bình ở khổ thơ kết nói lên niềm tin yêu tha thiết với quê hương, đất nước và cuộc đời. Đặt trong hoàn cảnh sáng tác bài thơ , tình cảm đó càng đáng trân trọng, càng cảm động biết bao !


Mùa xuân nho nhỏ” là một bài thơ có tứ thơ độc đáo, cảm hứng xuân phơi phới, hình ảnh sáng tạo, nhạc điệu vui tươi tha thiết. Đọc “mùa xuân nho nhỏ”, trái tim ta dường như xao xuyến, một cảm xúc thanh cao, trong sáng từ từ dâng ngập hồn ta. Bài thơ đem đến cho chúng ta bao cảm xúc đẹp về mùa xuân, gợi cho ta suy nghĩ về một lẽ sống cao đẹp của một tâm hồn trong sáng khiến ta cảm phục và tin yêu. Còn gì đẹp hơn mùa xuân ? Có tình yêu nào rộng lớn hơn tình yêu quê hương đất nước ? Thấm nhuần tâm tư, ước nguyện của của nhà thơ, chúng ta càng thêm tin yêu vào mùa xuân của đất nước và “mùa xuân nho nhỏ” trong lòng mình. Chúng ta muốn cùng con chim chiền chiện hót lên khúc ca ngọt ngào gọi xuân về, muốn học thành tài để hiến dâng cho đất nước, góp phần công sức nhỏ bé để tô điểm cho mùa xuân cuộc đời thêm đẹp.




Giáo viên: Ngô Thị Dương


Email: [email protected]


Đề bài: Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt


Bài làm


Kí ức tuổi thơ ở mỗi người luôn có những hình ảnh riêng đầy thiêng liêng và ấm áo. Chúng trở thành những biểu tượng của quá khứ sống với ta suốt cả cuộc đời. Nhà thơ Bằng Việt cũng có cho riêng mình một hình ảnh thiêng liêng được thể hiện qua bài thơ “Bếp lửa”.


Bếp lửa” ra đời vào những năm tháng gian khó của đất nước, năm 1963. Khi ấy Bằng Việt đang học tập ở nước ngoài, sống xa quê hương, xứ sở, cho nên “Bếp lửa” như một kỉ niệm quý giá mà ông gìn giữ trong tim luôn bập bùng những tình ảm và ước mơ bỏng cháy về hòa bình, độc lập, về hạnh phúc, bình yên cho mỗi ngôi nhà, trong đó có cả niềm hạnh phúc riêng tư bé nhỏ của gia đình mình.


Hình ảnh bếp lửa cháy bập bùng ngay ở tiêu đề bài thơ và cũng cháy ngay ở những dòng thơ đầu. Khác chăng, nó cháy bằng một thứ ánh sáng diệu kì, tha thiết:


Một bếp lửa chờn vờn sương sớm


Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”


Hình ảnh bếp lửa hiện lên trong kí ức nhà thơ đẹp đẽ, xinh đẹp mà ấm áp quá! Các cụm từ: “chờn vờn sương sớm”, “ấp ưu nồng đượm” đã khắc họa hình ảnh ngọn lửa lượn quanh chẳng muốn rời mà như muốn quyện mình vào sương sớm để sưởi ấm, để giao hòa với cái bàng bạc của đất trời vào khoảnh khắc tinh mơ. Và cũng chính ngọn lửa ấy cứ “nồng đượm” cháy, nồng nàn và sâu đậm như một thứ tình cảm quý giá, thiêng liêng.


Chỉ hai câu thơ thôi mà đầy sức gợi tả và liên tưởng.




Bếp lửa là thứ kỉ vật nặng ân tình của tuổi thơ Bằng Việt. Song kỉ vật ấy vẫn chỉ đơn thuần là một thứ vật chất vô tri nếu như nó không gắn với một con người cụ thể, một mối quan hệ cụ thể trong đời sống tình cảm của mỗi con người. Với Bằng Việt, bếp lửa là kỉ vật sống động gợi nhắc đến tình và cháu thiêng liêng ấm áp: “Cháu thương nhà biết mấy nắng mưa”.


Điều ấy thật kì lạ bởi bếp lửa gợi nhắc đến hình ảnh cả gia đình quây quần, đoàn tụ kia mà. Vậy mà tại sao không phải cha mẹ mà lại là bà?


Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi


Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy


Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu


Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”


Tâm sự thương bà là nỗi lòng của một đứa trẻ “Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói” bởi phải xa cha mẹ, thiếu vắng tình yêu thương của hai bậc sinh thành. Bù lại, “cháu” được bà bù đắp thương yêu của cả hai gộp lại. Và như vậy, bếp lửa bùng lên trong mỗi bữa cơm của cháu là nhờ bà nhen nhóm, sự ấm áp của tâm hồn trong suốt đời là bởi bà đã sưởi lửa ấp iu. Có như vây, bếp lửa mới sống động đến nhường kia: “Chờn vờn sương sớm”, “ấp iu nồng đượm”.


Suốt quãng giữa của bài, hình ảnh bếp lửa không trực tiếp hiện hữu mà chỉ gián tiếp được nhắc đến qua những làn khói mong manh:


Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói”


Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu”


Suốt tuổi thơ vất vả nhọc nhằn, lúc xa bố mẹ “đói mòn đói mỏi”, khi giặc đốt làng “cháy tàn cháy rụi”, bếp lửa như tình bà lặng lẽ âm thầm, như ước mơ nhỏ bé của nhà thơ chỉ lặng đi, cháy âm ỉ nhưng không bao giờ nguội tắt. Khói vẫn bay lên bởi trong lòng bếp vẫn nóng bỏng những than hồng rực rỡ. Và những dòng thơ cuối bài là khoảnh






khắc bếp lửa bùng lên sau bao năm ấp ủ lửa và cũng là giây phút tâm hồn nhà thơ tràn ngập xúc động:


Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen


Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn


Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”


Đến những câu thơ như thế, hình ảnh bà và hình ảnh bếp lửa đã trở thành một. “Rồi sớm rồi chiều” bà lại nhen lên bếp lửa. Động từ “nhen” nhà thơ dùng rất tinh tế. “Nhen” là nhen nhóm. “Nhen” cũng như “nhóm” nhưng thường được dùng với nghĩa bóng để chỉ khía cạnh tình cảm con người: nhen lên niềm vui, niềm hạnh phúc, nhen lên hi vọng. Và như thế, bà “nhen” lên bếp lửa cũng là thắp dậy một tấm tình yêu thương bao bọc đối với đứa cháu bé thơ. Với cháu “Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn”. Nếu ở câu thơ trên, bếp lửa là hình ảnh tả thực thì trong câu thơ dưới này, hình ảnh ngọn lửa đã đồng nhất với tình yêu thương để bà ủ ấp trong lòng sưởi ấm cho tâm hồn cháu nhỏ. Và vì vậy, hình ảnh người bà, hình ảnh bếp lửa và cả những yêu thương đã nhòa làm một đứng bên cạnh nhau và cháu trong nhau trở thành biểu tượng bền vững trong kí ức của nhà thơ Bằng Việt.


Ngọn lửa của bà, tình yêu thương của bà có một sức mạnh đặc biệt. Nó bùng lên, trỗi dậy, thắp sáng, sưởi ấm vạn vật và sưởi ấm lòng cháu:


Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm


Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi


Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui


Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”


Điệp từ “nhóm” được điệp lại nhiều lần nằm ở đầu mỗi dòng thơ thể hiện niềm xúc động của nhà thơ đang dồn dập, dâng trào. Không những vậy, điều đó còn thể hiện sức mạnh của ngọn lửa, tình yêu thương nồng nàn, sâu đậm. Ngọn lửa đã khơi dậy những gì bình dị mà thiêng liêng nhất: “niềm tin dai dẳng” – niềm tin bền bỉ của bà vào bình yên, độc lập, hạnh phúc, “niềm yêu thương khoia sắn ngọt bùi”, “nồi xôi gạo mới sẻ chung vui”. Và nhất là: “Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”. Bà đã khơi dậy trong lòng cháu một trời yêu thương, bà đã dựng xây cho cháu một khung trời tuổi thơ vẹn tròn mơ ước, hi vọng, bà là bà nhưng cũng là cha, là mẹ, là người bạn tâm tình cho cháu yêu thương, chăm sóc, bảo ban và chia sẻ… Với cháu, bà là tất cả quãng đời thơ bé. Cảm xúc ngưng đọng khiến nhà thơ phải thốt lên: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”.


Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu


Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả


Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:


  • Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”


Hình ảnh bếp lửa xuất hiện ở đầu và cuối bài thơ tạo nên kết cấu vòng tròn như hiện thân của niềm vui, niềm hạnh phúc vẹn tròn, ấm áp. “Bếp lửa” thực sự đã làm ấm lên cả tâm hồn người đọc.


Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ cùng tên của Bằng Việt là một hình ảnh thơ độc đáo, là hiện thân của tình cảm gia đình thiêng liêng ấm áp. Đọc bài thơ “Bếp lửa”, lòng ta trỗi dậy cà một thời kí ức về tuổi thơ hạnh phúc và từ bếp lửa của nhà thơ, ai ai cũng phải trân trọng, yêu thương và làm bùng lên bếp lửa của chính mình.





GV : Phạm Thu Huyền


Gmail: [email protected]




Đề bài: Cảm nghĩ của em về nhân vật ông Hai trong tác phẩm ”Làng” của Kim Lân.


Bài làm


Nếu như trước Cách mạng Tháng Tám, Ngô Tất Tố mang tới một chị Dậu với sức sống mãnh liệt của người nông dân, Nam Cao mang tới một Lão Hạc đầy lòng tự trọng và tình yêu thương con vô bờ bến,… thì sau Cách mạng Tháng Tám, Kim Lân – nhà văn nông dân – mang tới cho bạn đọc hình ảnh người nông dân thời kì đổi mới. Đó chính là nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” với tình yêu làng quê và lòng yêu nước sâu đậm, tha thiết.


Sinh ra và lớn lên nơi làng quê Việt Nam, giữa những người nông dân chất phác, nhà văn Kim Lân đã sớm gắn bó và am hiểu sâu sắc về cuộc sống ở nông thôn, sáng tác nhiều tác phẩm về đề tài này. Trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, khi người dân miền Bắc được lệnh tản cư, ông lại một lần nữa khắc họa hình ảnh người nông dân trong truyện ngắn “Làng”, không phải trong những vấn đề thường nhật, mà về tình yêu làng quê và đất nước của những con người chân lấm tay bùn ấy. Tác phẩm được đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ năm 1948, đánh dấu bước chuyển biến tích cực trong hình tượng người nông dân và nhận thức của họ, đặc biệt qua nhân vật ông Hai.


Nét tính cách đầu tiên và dễ nhận thấy nhất ở ông Hai là tình yêu tha thiết đối với làng ông. Đối với người nông dân, làng không chỉ là một đơn vị hành chính, địa lí.


  • đó chứa đựng cuộc sống của họ, tất cả những gì gần gũi và thân thuộc với họ. Làng chính là quê hương, là cuộc đời họ. Ông Hai cũng vậy, ông có tính hay khoe làng với tất cả niềm hãnh diện. “Ông nói về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai mắt ông sáng hẳn lên, khuôn mặt biến chuyển hoạt động.” Tình yêu làng đã biến ông Hai thành một con người hoàn toàn khác so với một ông Hai bị gò bó, tù túng trong căn bếp tản cư. Một nguồn sinh lực mới như dồi dào trong ông lúc đó. Tối này đến tối khác, ông nói đi nói lại về cái làng của ông. Kim Lân điểm nhịp câu chuyện bằng những lời trách móc ông hàng xóm nhãng ý không nghe chuyện, nhưng kỳ thực là để cho ta thấy rằng ông Hai không thực sự cần bác Thứ nghe, ông nói cho chính mình, nói để cho sướng miệng và cũng để thỏa nỗi nhớ làng. “Ông lại nghĩ về cái làng của ông, lại nghĩ đến những ngày cùng làm việc với anh em. […] Ông lại muốn về làng, lại muốn được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá.” Những ký ức về làng xưa, xóm cũ trở thành niềm an ủi, động viên ông Hai mỗi khi chán nản. Chỉ cần được ở lại làng, cùng chiến đấu với anh em thì như có một luồng sinh lực mới chảy dồi dào trong ông, và dù có gian khổ, khó nhọc, nguy hiểm đến bao nhiêu ông cũng chịu được. Hình ảnh đó hoàn toàn trái ngược với ông Hai lúc nào cũng buồn chán, bức bối, không biết làm gì trong căn bếp tản cư. Thế nhưng đó cũng chỉ là hồi ức, một hồi ức tươi vui và đầy tự hào đến nỗi mỗi khi nhớ lại, trong ông lại trào dâng một nỗi nhớ khôn nguôi : “Ông Hai nhớ cái làng, nhớ cái làng quá.” Với ông, ngôi làng của ông vốn đã là một điều gì đó vô cùng thiêng liêng và đẹp đẽ. Nay ở trong căn bếp tản cư chật hẹp, cái làng ấy lại càng đẹp hơn, trở thành một niềm mong ước, khao khát mãnh liệt. Điều đó hoàn toàn không phải phóng đại. Tâm sự của ông Hai là tâm sự của một người gắn bó với làng tha thiết, yêu làng bằng một


niềm tự hào chân chính. Tình yêu làng của ông Hai được thể hiện nổi bật và đậm nét nhất khi ông nghe tin làng ông theo Tây. Như xét đánh ngang tai, ông từ chối tin vào điều đó. “Cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng chừng như không thở được. Một lúc sau ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ.” Nếu như tin dữ ấy là cái làng đẹp đẽ của ông bị đốt trụi, nhà cửa, ruộng vườn của ông bị cướp mất thì có lẽ ông cũng không đau khổ bằng tin làng mình theo Tây. Tội nghiệp ông lão vui tính, xởi lởi giờ đây phải “cúi gằm mặt đi thẳng”, “nước mắt ông cứ giàn ra”. Giá ông không quá yêu làng, không quá tự hào về làng thì ông đã không thấy tủi nhục đến thế. Mấy chữ “cả làng chúng nó Việt gian

theo Tây” như găm vào trái tim ông, vào niềm tự hào về cái làng mà ông yêu vô cùng. Tất cả những gì ông trân trọng giữ gìn trong tim giờ đây như đều sụp đổ tan tành. Ông không chấp nhận được sự thật ấy và đấu tranh nội tâm dữ dội. Lúc đầu là nghi ngại (“Nhưng sao lại nảy ra cái tin như vậy được ?”), nhưng sau đó là đau đớn khi được biết những bằng chứng rõ ràng (“Mà thằng chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi”). Phải thừa nhận cái tin đó, không thể nào tả được nỗi đau của ông lúc ấy. “Chao ôi ! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian !” Có lẽ trong đời mình, ông Hai chưa từng chịu đựng hay thậm chí tưởng tượng được một nỗi đau, nỗi nhục như thế. Những tiếng ấy như thốt lên từ trái tim bị tổn thương, từ niềm tự hào bị chà đạp của ông, khiến người đọc cũng như cảm nhận được nỗi xót xa, tủi nhục của ông lúc ấy. Mà ông Hai đâu chỉ đau cho mình, đau cho làng, mà ông còn đau cho những người đồng hương, đồng cảnh ngộ. “Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa ?” Có thể những con người ấy trước kia có hiềm khích với ông, nhưng trước nỗi đau, nỗi nhục quá lớn này, tình yêu làng trỗi lên thật mạnh mẽ và đánh thức tình đồng hương trong ông. Kim Lân đã rất tài tình khi sử dụng hàng loạt câu cảm, câu hỏi liên tiếp trong nghệ thuật độc thoại nội tâm để lột tả sự đau khổ, xót xa, uất ức mà ông Hai phải chịu đựng. Lúc này đây, làng không chỉ là nơi chôn rau cắt rốn nữa, mà là một cái gì đó lớn lao hơn, là lòng tự trọng, là danh dự.


Không chỉ thế, tình yêu làng còn trở thành một nỗi ám ảnh day dứt trong ông, buộc ông phải lựa chọn giữa làng và nước. Nếu lúc trước ông tự hào, ông thao thao bất tuyệt về làng mình bao nhiêu thì bây giờ ông xấu hổ, trốn tránh bất nhiêu. Cái tin đồn quái ác kia trở thành một nỗi ám ảnh, một nỗi sợ vô hình luôn đè nặng lên tâm trí ông. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông… là ông lủi ra một góc nhà, nín






thít. Thôi lại chuyện ấy rồi !” Lẽ thường tình, khi người ta suy nghĩ quá nhiều về một điều gì đó, lúc nào ta cũng có cảm tưởng những người khác cũng như vậy. Thế thì nỗi ám ảnh và lo sợ của ông Hai phải lớn đến chừng nào để ông bị dằn vặt tới vậy ! Lòng yêu làng của ông phải lớn biết chừng nào ! Kim Lân đã diễn tả rất cụ thể và sâu sắc tâm trạng nặng nề ấy, vì bản thân tác giả cũng từng gặp hoàn cảnh tương tự. Ông Hai đã trải qua những giờ phút không thể đau đớn và tủi hổ hơn khi bị mụ chủ nhà nói móc nói máy để đuổi khéo. Người đọc như cảm nhận được từng lời từng chữ của mụ như xoáy sâu vào tình yêu làng vốn đã quá tổn thương của ông. Dù đã dứt khoát đi theo kháng chiến, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm sâu đậm với làng quê, và vì thế mà ông càng đau xót, tủi hổ hơn.


Bên cạnh tình yêu làng, nhân vật ông Hai còn ghi dấu trong mắt người đọc bằng lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến. Ông luôn theo sát tin tức kháng chiến và tự hào về những chiến công mà nhân dân ta đã lập nên. “Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá !” Nhưng đến khi phải lựa chọn giữa làng và nước, tình yêu ấy mới bộc lộ rõ rệt. Dù bị tin đồn làng mình theo Tây dồn vào “tuyệt đường sinh sống”, ông vẫn nhất quyết không trở về làng. Đến đây, ta mới hiểu rõ về con người hay chuyện tưởng chừng rất đơn giản, bộc trực kia. Tình yêu làng giờ đây đã trở thành tình yêu có ý thức, hòa nhập và lòng yêu nước. “Về làm gì cái làng ấy nữa. Về làng là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ.” Nhớ lại những tháng ngày đen tối bị đàn áp xưa kia, ông đã có quyết định rõ ràng, đúng đắn. Là người nông dân chân lấm tay bùn nhưng ông Hai có nhân thức cách mạng rõ ràng : “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.” Nhận thức rất mới này là một nét đặc biệt trong tính cách của ông Hai, đánh dấu sự thay đổi của người nông dân sau Cách mạng Tháng Tám. Ông luôn luôn muốn được giãi bày nỗi lòng ấy của mình. Tuy nói chuyện với đứa con, nhưng thực chất ông đang mượn lời đứa trẻ để bày tỏ tâm sự. Những gì đứa trẻ nói chính là những gì đang dâng trào trong lòng ông mà không nói ra được. “Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ.” Ông Hai nói với đứa con như thể nói với anh em đồng chí, để minh oan cho tấm lòng thành thật của mình, để nỗi khổ tâm trong lòng như vơi đi được đôi phần. Lòng yêu nước của ông thật giản dị nhưng vô cùng chân thành, sâu sắc và cảm động. Chính điều ấy đã giúp ông chịu đựng được tin đồn quái ác về làng mình, vì ông có niềm tin vào cách mạng, vào kháng chiến. Từ đây, ông Hai nói riêng hay người nông dân nói chung, đã nhìn rộng hơn, xa hơn lũy tre làng. Không chỉ yêu làng, trong ông còn có một tình yêu lớn gấp nhiều lần – lòng yêu nước.


Đến khi tin làng chợ Dầu theo giặc được cải chính, tình yêu làng, yêu nước của ông Hai mới được vẽ lên hoàn chỉnh. Ông Hai như sống lại. “Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên.” Một lần nữa, tình yêu làng, yêu nước của ông được thể hiện một cách chân thực, cảm động. Nguồn sinh lực ngày nào lại trở về trong ông. Ông Hai lại là ông Hai xưa. Ông lại nói về làng mình, về “Tây nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn !” Niềm vui sướng của ông được thể hiện thật hồn nhiên, chân thật và rất mãnh liệt. Có lẽ không ai trên đời lại đi khoe, đi mừng việc nhà mình bị đốt như thế. Nhưng với ông Hai, điều đó đâu có là gì so với niềm vui khi thanh danh của làng được rửa. Vì sự mất mát ấy cũng là sự hồi sinh của một làng Chợ Dầu mà ông hằng yêu và xứng đáng với tình yêu ấy : làng Chợ Dầu kháng chiến. Tình yêu làng là cơ sở, là biểu hiện hùng hồn nhất của tình yêu nước trong ông Hai. Quả đúng như nhà văn I-li-a Ê-ren-bua đã từng nói : “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê làm nên lòng yêu tổ quốc.” Nếu so với lão Hạc của Nam Cao hay chị Dậu của Ngô Tất Tố trước Cách mạng tháng Tám – những người nông dân cả cuộc đời đầu tắt mặt tối trong ruộng vườn thì nhân vật ông Hai đã có nhận thức rõ ràng về cách mạng, về kháng chiến. Ông đã nhận ra rằng : Đất nước còn thì làng còn, đất nước mất thì làng cũng mất. Đây không chỉ là sự thay đổi trong suy nghĩ người nông dân, mà còn là suy nghĩ của mỗi người dân Việt Nam thời điểm đó. Họ sẵn sàng hy sinh những cái riêng, những cái nhỏ vì sự nghiệp chung, vì cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Họ không hề quên đi cội nguồn của mình mà gìn giữ nơi ấy ở trong tim, biến thành động lực chiến đấu để giải phóng đất nước, giải phóng quê hương.


Truyện ngắn “Làng” đã xây dựng thành công nhân vật ông Hai, đặc biệt qua tình huống làng Chợ Dầu bị đồn là theo Tây. Nguyễn Minh Châu từng nói : “Tình huống là một loại sự kiện đặc biệt của đời sống, được sáng tạo ra theo hướng lạ hóa. Tại đó, vẻ đẹp nhân vật hiên ra sắc nét, ý nghĩa tư tưởng phát lộ toàn diện.” Kim Lân đã sáng tạo được một tình huống truyện có tính căng thẳng để thử thách nhân vật. Nó đã cho ta thấy chiều sâu của nhân vật ông Hai, những nét tính cách, những chuyển biến trong nhận thức và tình cảm của ông, và hơn hết là tình yêu làng, yêu nước tha thiết. Nhà văn cũng vô cùng thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, khi thì miêu tả cử chỉ hành động, khi thì độc thoại nội tâm, độc thoại, đối thoại để lột tả tính cách nhân vật. Ngôn ngữ kể chuyện rất linh hoạt, tự nhiên, lúc dềnh dàng, lúc đột ngột tùy theo diễn biến. Bên cạnh đó, tác giả vốn am hiểu cuộc sống nông thôn nên ngôn ngữ của ông Hai là khẩu ngữ, rất bình dị và gần gũi, đậm chất nông dân. Với nhân vật ông Hai, Kim Lân quả thực rất xứng đáng là một cây bút “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”.


Nguyễn Đình Thi từng viết rằng : “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh.” Truyện ngắn “Làng” đã được viết nên từ những điều nhà văn từng trải nghiệm, khắc họa một cách chân thực nhất những tháng ngày đi tản cư của nhân dân miền Bắc trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, cũng như những chuyển biến trong nhận thức và tình cảm của họ.. Thông qua nghệ thuật xây dựng tình huống truyện và miêu tả tâm lí, ngôn ngữ nhân vật, Kim Lân đã mang đến cho bạn đọc nhân vật ông Hai với tình yêu làng quê và lòng yêu nước sâu đậm, thiết tha.


( Nguồn: Copy)



Giáo viên: Nguyễn Thị Hà


Email: [email protected]






ĐỀ BÀI: CẢM NHẬN BÀI THƠ "SANG THU" CỦA HỮU THỈNH



Thu là thơ của đất trời, là “bình minh mát” của lòng người (Xuân Diệu). Mùa thu vốn là 1 đề tài quen thuộc của thơ ca. Trong kho tàng VHVN có rất nhiều các bài thơ viết về mùa thu như “Chùm thơ thu” (Ng.Khuyến), “Đây mùa thu tới” (X.Diệu), “Tiếng thu” (Lưu Trọng Lưu). Nhưng có lẽ chỉ khi đến với Hữu Thỉnh, ta mới có thể cảm nhận được phần nào cái “cốt tủy chung tình bên trong” của nó. Tất cả mọi vẻ đẹp ở “bề sau, bề sâu, bề xa” của mùa thu đều được gửi gắm qua bài thơ “Sang thu”.


Hữu Thỉnh là một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sớm gần gũi với thiên nhiên cây cỏ, thơ ông được thừa hưởng cái dạt dào trong cảm xúc về quê hương, đất nước và con người. Ngòi bút của ông rất bắt nhạy với những gì mong manh nhẹ nhàng tưởng như khó nắm bắt nhất. Đó là lí do vì sao khi cảm xúc chợt tìm đến thi nhân, trong cái tiết hanh hanh của thu mới, của hạ cũ, nhà thơ không thể kìm lòng được mà phải cầm bút viết bài thơ “Sang thu” (1977). Bài thơ được ra đời trong một hoàn cảnh rất đặc biệt là khi còn “ngồi trên một cây ổi chín vàng trong một vườn ổi bạt ngàn”. Chính việc lựa chọn thời điểm độc đáo ấy đã khiến cho người đọc cảm nhận rõ ràng sự vận động, luân chuyển của thời gian, không gian tạo vật. Càng đọc, ta càng cảm phục hơn trước cái tài thâu tóm của nhà thơ.




Đến với khổ thơ đầu, ta như được hòa mình trong bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp


của

làng

quê

Việt

Nam

thật

sống

động:

Bỗng


nhận


ra


hương

ổi

Phả


vào


trong


gió

se

Sương


chùng


chình


qua

ngõ

Hình


như


thu


đã

về”


Câu thơ mở đầu với cụm từ “bỗng nhận ra” diễn tả thật chính xác cảm xúc ngỡ ngàng, thú vị trước sự đổi thay đột ngột của thiên nhiên cảnh vật. Tín hiệu đầu tiên mà tác giả cảm nhận được khi thu sang không phải là bầu trời xanh, hương cốm mới, lá vàng rơi mà chính là hương ổi – thứ hương thơm dân dã, mộc mạc; thứ quà quê bình dị, thân quen trong cuộc sống nhưng mới mẻ trong thi ca mùa thu. Nếu như người xưa thấy thu qua “ngô đồng nhất diệp lạc”, thi sĩ Xuân Diệu đón chào thu bằng hình ảnh “rặng liễu đìa hiu đứng chịu tang” (Đây mùa thu tới), vị Tam Nguyên Yên Đổ yêu thu từ chiếc “lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” (Thu điếu), Lưu Trọng Lư gửi gắm thu trong “con nai vàng ngơ ngác” (Tiếng thu), thì Hữu Thỉnh lại lựa chọn “hương ổi”. Ông tâm sự: “giữa trời đất mênh mang, giữa cái khoảnh khắc giao mùa kỳ lạ thì điều khiến cho tâm hồn tôi phải lay động, phải giật mình để nhận ra đó chính là hương ổi. Với tôi, thậm chí là với nhiều người khác không làm thơ thì mùi hương đó gợi nhớ đến tuổi ấu thơ, gợi nhớ đến buổi chiều vàng với một dòng sông thanh bình, một con đò lững lờ trôi, những đàn trâu bò no cỏ giỡn đùa nhau và những đứa trẻ ẩn hiện trong triền ổi chín ven sông… Nó giống như mùi bờ bãi, mùi con trẻ… “. Hóa ra đó là mùi hương quen thuộc, dân dã, mộc mạc luôn vấn vương mãi trong tâm hồn người con yêu xứ, mùi hương của tuổi thơ, của tiếng cười, của bình yên và hạnh phúc. Điều đặc biệt ở chỗ hương thơm ấy không những nồng nàn, đậm đặc mà cũng như thấm thoát, dìu dịu, thoang thoảng, lan tỏa khắp không gian đất trời. Điều đó thể hiện rõ nhất ở động từ “phả” có nghĩa là lan tỏa từ từ. Đây cũng chính là dấu hiệu nghệ thuật thành công của bài. Hương thơm ấy được làn “gió se” lan khắp không gian đất trời.


Trong “Sang thu”, dấu hiệu đầu tiên là hương ổi, làn gió và sương thu. Nhưng nó không phải là “Sương thu man mác đầu ghềnh” của Tản Đà mà là “Sương chùng chình qua ngõ”. Ở đây, sương thu cũng có cái nét đặc biệt riêng của nó. Nó không tan nhanh như sương mùa hạ, cũng chẳng dày đặc như sương mùa đông. Sương thu là những làn khói mong manh bay vờn nhẹ trên những mái nhà, ngoài vườn. Sương chùng chình là sương thu ngập ngừng, vấn vương, bịn rịn, không muốn rời. Chỉ 2 từ “chùng chình” thôi mà như đong cả hương ổi và cả động thái mơ hồ để diễn tả bước đi chầm chậm của mùa thu.


Trong 3 câu đầu, bước chân mùa thu dường như đã hiện diện với hương, gió, sương. Nhưng trong câu thơ thứ 4, tác giả không viết “Ôi! Mùa thu đã về” mà lại là “Hình như thu đã về”. Khác với tâm trạng náo nức, reo vui của tác giả Xuân Diệu khi thốt lên “Đây mùa…lá vàng”, ở đây nhà thơ Hữu Thỉnh có cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến, ngỡ ngàng như cái giật mình của tác giả trước mùa thu. Ở Hữu Thỉnh, ta lại bắt gặp một sự hoài nghi, lưỡng lự, một điều gì đó chưa rõ ràng trong cảm xúc. Phải chăng thiên nhiên chưa đủ làm nên một mùa thu trọn vẹn hay chính tâm hồn thi sĩ chưa kịp sẵn sàng để đón chào sự đổi thay của tạo vật? Tác giả đã cảm nhận mùa thu bằng rất nhiều giác quan khác nhau. Từng câu từng tiếng thoát ra đều thể hiện rõ sự tinh tế, sâu sắc trong cách nhìn, cách cảm cuộc sống.


Nếu khổ 1, bức tranh thu được vẽ cảm nhận vô hình trong không gian hẹp và gần thì khổ 2 được nhà thơ cảm nhận ở không gian rộng và xa:


Sông được lúc dềnh dàng


Chim bắt đầu vội















đám

mây

mùa

hạ









Vắt

nửa

mình

sang

thu”



Hình ảnh đầu tiên hé lộ với dòng sông “dềnh dàng” thong thả, lững lờ trôi. Gợi ra


trong ta cảm giác về một mùa thu êm đềm, chảy trôi như tam thế của một “người khách bộ hành phiêu lãng” (Thế Lữ), đang thư thái vừa đi vừa ngắm cảnh đôi bờ. Trên trời, mấy cánh chim đã “vội vã” bay về Nam tránh rét. Hữu Thỉnh thật tinh tế khi sử dụng cụm từ “được lúc” và “dềnh dàng”, có nghĩa chỉ đến mùa thu, mọi vật mới biến đổi như thế. Đó là những thay đổi, biến chuyển của thiên nhiên trong giây phút giao mùa.


Đặc biệt gây sự chú ý cho độc giả là “đám mây mùa hạ vắt nửa mình sang thu”. Ở đây, thu mới chỉ là ở nơi cửa ngõ cho nên đám mây mới chỉ vắt nửa mình. Với những BPNT cùng cách liên tưởng độc đáo khiến đám mây trở nên thật bồng bềnh, duyên dáng. Viết về đám mây, nhà thơ Hữu Thỉnh đã từng tâm sự: “Mây mùa hạ thường chứa nhiều màu sắc, thậm chí là giông bão, tựa hồ những ước mơ khát khao của tuổi trẻ…Tuy nhiên, giữa ước mơ và thực tại là 2 thế giới luôn đối lập nhau và chẳng phải ước mơ nào cũng trở thành hiện thực…Sự dang dở, sự mất mát là một hiện thực buộc chúng ta phải chấp nhận trong cuộc sống của mình…”. Như vậy, hình ảnh “đám mây vắt nửa mình” không chỉ gợi hình ảnh


  1. đám mây duyên dáng vắt ngang bầu trời mà còn thể hiện cảm nhận tinh tế trong tâm hồn Hữu Thỉnh. Đám mây ấy đâu chỉ được nhìn bằng mắt mà còn nhìn bằng sự rung


động của tâm hồn, của trái tim. Một áng mây bâng khuâng trên bầu trời nhuộm nửa sắc thu. Mây là thực còn ranh giới mùa là ảo, và đến một lúc nào đó đám mây ấy sẽ tràn sang trọn vẹn bầu trời thu như nhà thơ Nguyễn Khuyến đã viết: “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”. Đây thực chất là cách nói lấy không gian để chỉ thời gian. Với lời tự bạch của nhà thơ, chúng ta còn biết đến một lớp nghĩa nữa ở hình ảnh này. Phải chăng, tác giả muốn nói tới cái sang thu của đời người bởi vì sang 1 trang mới người ta sẽ nhìn lại những gì đã qua, những gì sắp tới, những gì đã thực hiện được; những ước mơ đã thực hiện được cũng có những ước mơ mãi mãi chỉ là mơ ước mà thôi.



Nếu như hai khổ thơ đầu nghiêng về mù thu của đất trời thì đến khổ thơ kết, tác giả lại hướng chúng ta về một mùa thu của lòng người với những trải nghiệm của chính


bản


thân


mình.

Vẫn

còn

bao

nhiêu

nắng

Đã

vơi

dần

cơn

mưa

Sấm

cũng

bớt

bất

ngờ


Trên hàng cây đứng tuổi”



Vẫn là những hình ảnh thiên nhiên của mùa hạ với nắng, mưa, sấm. Nhưng cách diễn tả của nhà thơ thật tinh tế: Nắng vẫn còn nhưng không rực rỡ, chói chang. Mưa vẫn còn nhưng không ào ạt. Sấm vẫn còn nhưng không dữ dội. Tất cả những gì đặc sắc nhất của mùa hạ dường như vẫn còn chì có điều tất cả đã vơi dần, vơi bất ngờ, vơi vội vã. Hình ảnh ấy rất phù hợp với không khí thời điểm giao mùa. Hạ chưa hết mà thu đang qua. Mùa nọ nối tiếp mùa kia, góp vào cuộc đời chung khúc giao hưởng ý nghĩa. Bên cạnh đó, ta còn ấn tượng hơn với tầng lớp ẩn dụ đằng sau câu chữ, gợi liên tưởng về những tác động của ngọai cảnh đến con người. “Hàng cây đứng tuổi” hay cũng chính là những con người đang bước vào tuổi trung niên, những con người đã bước qua tuổi trẻ- cái thời vàng son sôi nổi, cái thời mà con người ta có quyền phung phí những ước mơ, hoài bão. Giờ đây, đối với những người dày dặn kinh nghiệm trong phong ba bão táp của cuộc sống, mọi thứ đã trở nên điềm tĩnh và vững vàng hơn, trước thời cuộc, trước sự thách thức của khó khăn và sự đổi thay của xã hội. Nhưng nếu quay lại để ý tới hoàn cảnh sáng tác của bài thơ thì chúng ta nhận ra một lớp nghĩa nữa đó là sự chuyển mình của đất nước snag 1 trang mới. Năm 1977 khi ấy đất nước ta đã hòa bình, độc lập nhưng vẫn còn rất nhiều những khó khăn, vất vả và bài thơ đã thể hiện được bản lĩnh cứng cỏi của đất nước khi chuyển mình sang 1 trang mới. Đó cũng chính là chất triết lý đậm đà của bài thơ.



Hengmingway từng nói, đại ý: Một tác phẩm hay là một tác phẩm tuân theo nguyên lý “tảng băng trôi” một phần chìm, bảy phần nổi. Tôi cho rằng “Sang thu” chính là một thi phẩm như thế. Chỉ với ba khổ thơ ngắn ngủi, khiêm nhường, nhà thơ đã thực sự mang đến cho người đọc những cảm xúc rất riêng. Bài thơ kết cấu rõ ràng, mạch lạc, ngôn ngữ giàu sắc thái biểu cảm, hình ảnh thơ chân thực, đa nghĩa, giọng điệu với những trạng thái biến chuyển tinh vi, sâu sắc, không chỉ khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên mùa thu tiêu biểu của làng quê Việt Nam mà còn lắng lại trong tâm trí chúng ta một mùa thu của cuộc đời cùng những tâm tư thật xúc động.






Giáo viên: Nguyễn Thị Huệ Đơn vị: THCS Nam Hưng





Email: [email protected]






Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương.






Bài làm




Đã ngừng đập một trái tim,


Đã ngừng đập một cánh chim đại bàng.


Nỗi đau vô tận thời gian,


Nhớ thương thương nhớ lệ tràn đẫm mi,


Hành trang Bác chẳng có gì


Một đôi dép mỏng đã lì chông gai.


(Gửi lòng con đến cùng cha - Thu Bồn)



Biết bao những lời ca, tiếng hát kính dâng lên Người - Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại, người cha già vô vàn kính yêu của dân tộc Việt Nam. Người dành cả cuộc đời để cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, những cống hiến của Người cho nước, cho dân không tài nào đong đếm được. Bác đã ra đi, đó là tổn thất lớn lao của cả dân tộc. Nhưng Người vẫn luôn sống mãi trong trái tim của mỗi người dân Việt Nam và bạn bè quốc tế, tình yêu thương, lòng kính trọng, sự biết ơn tiếc thương vô hạn của nhân loại dành cho Người luôn hiện hữu. Bài thơ Viếng lăng Bác của Viến Phương đã để lại trong lòng Người đọc niềm xúc động trào dâng.


Ra đời năm 1976, bài thơ ra đời trong không khí xúc động của nhân dân ta lúc công trình lăng Bác được hoàn thành sau khi miền Nam được giải phóng, đất nước được thống nhất, đồng bào miền Nam có thể thực hiện mong ước được vào lăng viếng Bác. Bài thơ với ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc chứa đựng niềm kính yêu, sự xót thương và lòng biết ơn vô hạn của nhà thơ đối với lãnh tụ.


Mở đầu bài thơ là c¶m xóc cña t¸c gi¶ khi ®Õn th¨m l¨ng B¸c bằng một câu kể:


Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác.







Lời thơ ngắn gọn, giản dị không hoa mĩ, câu thơ như một lời chào, một lời gửi thưa thành kính. Địa danh “miền Nam” cũng thật giàu sức gợi. Nó không chỉ xác định vị trí địa lí rất xa xôi mà còn có ý nghĩa lịch sử. Trong tim Bác, miền Nam luôn là nỗi đau chia cắt, là biểu tượng anh hùng, là thành đồng Tổ quốc… Trong tâm trạng của người con miền Nam “mong Bác nỗi mong cha”. Đó là niềm mong ước không chỉ của riêng nhà thơ mà còn của biết bao người con miền Nam muốn được gặp Bác, muốn được ở bên Bác. Niềm mong ước ấy giống như cây tìm về cội, sông trở về nguồn, như máu chảy về tim. Đó là tình cảm chân thành, tha thiết của nhà thơ đối với vị cha già dân tộc.


Nhà thơ xưng “con” - “Bác”,“con” - cách xưng hô thật gần gũi, thân thiết, ấm áp thân thương mà vẫn rất mực thành kính thiêng liêng. Trong sâu thẳm lòng mình Viễn Phương coi Bác là người cha nhân hậu, hiền từ như nhà thơ Tỗ Hữu đã tưng bộc lộ:


Bác Hồ là vị cha chung


Là sao bắc đẩu là vầng thái dương.



Nhà thơ sử dụng từ “thăm” thay cho từ “viếng”. “Viếng” là đến chia buồn với người thân đã mất, “thăm” là gặp gỡ, trò chuyện với người đang còn sống. Nhan đề dùng từ “viếng” theo đúng nghĩa đen, trang trọng khẳng định sự thật Bác đã qua đời. “Thăm” trong câu thơ ngụ ý nói giảm, nói tránh, giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát, khẳng định Bác vẫn còn sống mãi trong trái tim nhân dân miền Nam, dân tộc Việt Nam. Đồng thời gợi sự thân mật, gần gũi: Con về thăm cha - thăm người thân ruột thịt, thăm chỗ Bác nằm, thăm nơi Bác ở để thỏa lòng khát khao, mong nhớ bấy lâu. Câu thơ giản dị, mộc mạc nhưng lại vô cùng gợi cảm, dồn nén biết bao cảm xúc. Cách dùng từ của Viễn Phương giúp người đọc cảm nhận được tình cảm xúc động, nhớ thương của một người con đối với cha. Đó không chỉ là tình cảm riêng của nhà thơ mà còn là tình cảm chung của dân tộc Việt Nam. Thế hệ này tiếp nối thế hệ khác, song tất cả đều có chung một tình cảm như thế với Bác Hồ kính yêu.


Cái hay của khổ thơ không chỉ ở từ ngữ bình dị mà còn hay ở hình ảnh “hàng tre xanh bát ngát”


Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát.



Nhà thơ phải đến xếp hàng từ rất sớm mới thấy trong lung linh sương sớm bát ngát hàng tre. “bát ngát” - từ láy biểu cảm gợi không gian rộng lớn, xanh mát. Câu thơ tả thực “tre” là hình ảnh thân thuộc mà bao năm in vào tâm hồn người dân Việt Nam. Gặp lại hàng tre nhà thơ liên tưởng Bác đang sống gần gũi thân thuộc với làng quê. Hàng tre ấy như bao bọc, ôm lấy hình bóng của Người - vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam.


Sự xuất hiện của hàng tre khiến nhà thơ phải thốt lên:


Ôi! Hàng tre xanh xanh Viêt Nam.



Thán từ ôi” tách ra thành câu đặc biệt vừa biểu lộ sự ngạc nhiên, vừa diễn tả nỗi xúc động. “Hàng tre xanh xanh Việt Nam” là hình ảnh ẩn dụ biểu tượng cho con người, dân tộc Việt Nam anh dũng, kiên cường .


Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.



Bão táp mưa sa” là thành ngữ, là hoán dụ lấy cái cụ thể để chỉ cái trừu tượng là khó khăn, gian khổ. Còn tư thế “đứng thẳng hàng” là ẩn dụ chỉ sức mạnh tinh thần, ý chí, bản lĩnh kiên cường, bất khuất. Một dân tộc dù nhỏ bé nhưng không chịu khuất phục tước kẻ thù, không chịu đầu hàng trước thiên tai bão lũ dù trong khó khăn gian khổ, trong bão táp mưa sa vẫn giữ vững một tấm lòng thủy chung son sắt. Tới đây, tình cha con ruột thịt đã được mở rộng, nâng lên hòa quện trong tình quần chúng - lãnh tụ cao quý và thiêng liêng.


Chỉ một khổ thơ ngắn thôi nhưng cũng đủ để thể hiện những cảm xúc chân thành, thiêng liêng của nhà thơ và cũng là của nhân dân với Bác.


Miêu tả cảnh đoàn người vào lăng và bộc lộ tình cảm thành kính, biết ơn của nhà thơ với Bác.


Nếu như ở khổ thơ đầu nhà thơ gợi nhắc tới bao phẩm chất tốt đẹp của dân tộc ta qua hình ảnh “hàng tre” thì đến khổ hai nhà thơ tiếp tục thể hiện những xúc cảm của mình trước những đoàn người vào lăng viếng Bác và bộc lộ tình cảm thành kính, biết ơn của nhà thơ với Bác.


Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng


Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.



Câu thơ ấn tượng nhất là hình ảnh mặt trời. Mặt trời trên lăng là “mặt trời” của thiên nhiên, vũ trụ ấm áp, rực rỡ chiếu sáng, mang lại nguồn sống cho muôn vật muôn loài trên trái đất. Còn“mặt trời trong lăng” là hình ảnh ẩn dụ để chỉ Bác Hồ. Thực ra, việc ví Bác với mặt trời không phải là tứ thơ mới, trước Viễn Phương đã có rất nhiều nhà thơ đã ví Bác với mặt trời. Tố Hữu đã từng có ý thơ:


Người rực rỡ một mặt trời cách mạng


Mà Đế quốc là loại dơi hốt hoảng


Đêm tàn bay chập choạng dưới chân Người...


Nhưng cái mới mẻ của Viễn Phương là đã kết hợp ẩn dụ với nghệ thuật nhân hóa. Mặt trời của tự nhiên vốn đã đẹp, vốn đã rực rỡ chói lóa, ấy vậy mà vẫn phải ngưỡng mộ trước vẻ đẹp tài năng và nhân cách của Hồ Chí Minh. Cảm nhận về hai câu thơ này,

giáo sư Trần Đình Sử trong bài "Lời người con miền Nam ra thăm cha già dân tộc", đã viết: "Ví Bác với mặt trời là hình ảnh đã quen nhưng so sánh mặt trời trên lăng với mặt trời trong lăng là một sáng tạo mới, xuất thần, thoát sáo, chưa hề có. Mặt trời rất đỏ làm nhớ tới trái tim nhiệt huyết, chân thành, trái tim thương nước, thương dân". Với việc ví Bác với mặt trời, thật tự nhiên, chọn lọc một là cụ thể, một là biểu tượng nhưng ý nghĩa thật tương đồng. Viễn Phương vừa ca ngợi sự vĩ đại của Bác. Bác là nguồn sức mạnh, cổ vũ soi đường cho cả dân tộc thoát khỏi kiếp đời lô lệ, tối tăm để đến với độc lập, tự do, thống nhất. Đồng thời vừa nhấn mạnh được tư tưởng ngời sáng của Người, lại vừa thể hiện được lòng thành kính của nhân dân, của nhà thơ đối với Bác Hồ.


Cặp câu thứ hai nhà thơ miêu tả:


Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ


Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.


Nhịp thơ chậm chậm như bước chân đi lặng lẽ. Đoàn người vào lăng viếng Bác nối nhau thành “dòng” không dứt. Thông qua nghệ thuật ẩn dụ dòng người bất tận kia trở thành “tràng hoa” dâng lên vị cha già dân tộc. “Tràng hoa” có thể là hình ảnh thực, có thể là ẩn dụ chỉ tấm lòng, tượng trưng cho muôn triệu cuộc đời nở hoa dưới ánh sáng mặt trời Bác Hồ rực rỡ. Dù hiểu theo cách nào hình ảnh thơ cũng thạt đẹp. Chữ “dòng” diễn tả sự thành kính, lòng biết ơn.


Từ “ngày ngày” được nhắc lại hai lần như một điệp ngữ sóng đôi với câu trước, vừa có


  • nhấn mạnh, vừa có ý so sánh. Giống như “mặt trời đi qua trên lăng”, tình cảm của nhân dân với Bác cũng vĩnh hằng như quy luật vận hành của vũ trụ. Hơn thế nữa, niềm thương nhớ Bác được Viễn Phương diễn tả qua một hình ảnh xúc động “đi trong thương nhớ”. Thương nhớ từ lòng người, nhuốm phủ lên tất cả để làm thành không gian


thương nhớ. Hóa ra niềm tôn kính Bác đâu chỉ của riêng nhà thơ. Niềm tôn kính Bác là

của chung dân tộc. Tình cảm ấy không vô hình, cụ thể bao trùm lên trong không gian, thời gian vô tận “ngày ngày”. Đặc biệt, hình ảnh “bảy mươi chín mùa xuân” là hình ảnh hoán dụ thật đẹp mang ý nghĩa tượng trưng vì “mùa xuân” không chỉ gợi tuổi mà còn gợi đến sự bất tử và khẳng định sức cống hiến không mệt mỏi, thanh xuân tươi trẻ mãi của Bác Hồ cho đất nước , nhân dân. “bảy mươi chín mùa xuân”, Bác ra đi khi vừa tròn 79 tuổi - 79 năm -79 mùa xuân Bác đã cống hiến, hi sinh vì sự nghiệp của dân tộc mà không giành một chút riêng tư về mình.


Xin nhớ từ đây nhớ lại ngày


Bác Hồ từ giã cõi hôm nay


Bảy mươi chín xuân trong sáng ấy


Vào cuộc trường sinh nhẹ cánh bay.


(Theo chân Bác - Tố Hữu)


Khổ thơ thứ hai đã nói hộ bao người tình cảm thành kính, biết ơn với Bác người đã đem lại mùa xuân nở hoa mãi mãi cho dân tộc chúng ta.


Hòa theo dòng người vào lăng viếng Bác, khi đứng trước di hài Bác nhà thơ nâng niu, trân trọng cả giác ngủ của người - giấc ngủ bình yên trong ngày đất nước thống nhất. Khung cảnh và không khí trong lăng được tái hiện ngay cặp câu đầu:


Bác nằm trong giấc ngủ bình yên


Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền.


Câu thơ mở ra một không khí trang nghiêm, thanh tĩnh trong lăng, nhà thơ cảm nhận Bác đang ngủ - một “giấc ngủ bình yên”, cách nói giảm nói tránh, giảm bớt sự đau thương, mất mát của cả dân tộc khi Bác đã ra đi. Đồng thời cho thấy giấc ngủ nhẹ nhàng, bình yên, thanh thản của Bác trong giấc ngủ ngàn thu. Bởi cả cuộc đời của Bác chưa






đêm nào Người có một giấc ngủ trọn vẹn, Người luôn trằn trọc, băn khăn vì vận mệnh đất nước.


  • Một canh… hai canh… lại ba canh Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt


Sao vàng năm cách mộng hồn quanh.


(Không ngủ được – Hồ Chí Minh)


Chính vì lẽ đó mà nhà thơ Hải Như đã từng nhắc nhở chúng ta: khi vào lăng viếng Bác phải nói nhẹ, đi khẽ để không làm Bác giật mình.


Cả cuộc đời Bác có ngủ yên đâu


Nay Bác ngủ chúng con canh giấc ngủ.


Hình ảnh vầng trăng trong câu thơ “Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền” là một hình ảnh đầy chất thơ, giàu sức gợi. Đây là hình ảnh ẩn dụ gợi ta liên tưởng đến tâm hồn cao đẹp, sáng trong gợi ta nhớ đến những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Bác


  • Người ngắm trăng soi ngoài của sổ Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.


  • Trăng nhòm khe cửa đòi thơ


Việc quân đang bận xin chờ hôm sau.


........


Qua những vần thơ về trăng của Bác, chúng ta thấy tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, chất nghệ sĩ trong con người Hồ Chí Minh. Cùng với mặt trời, hình ảnh vầng trăng đã hoàn thiện bức chân dung Hồ Chí Minh trong tâm khảm mỗi người: chói lóa, rực rỡ, trong sáng, thanh cao, hiền lương, thương mến. “Vầng trăng” tỏa chiếu giấc ngủ của Người thật phù hợp và có ý nghĩa. Nhờ đó, người đọc cảm nhận đầy đủ


hơn, xúc động hơn về “giấc ngủ” đẹp đẽ, thanh cao của một con người đã bao đêm không ngủ, đấu tranh và hi sinh quên mình cho dân tộc, nhân loại


Trong khung cảnh bình yên đến tưởng như ngưng kết cả không gian, thời gian, tâm trạng và cảm xúc nhà thơ chuyển sang niềm xót xa, đau đớn, tiếc nuối.


Vẫn biết trời xanh là mãi mãi


Mà sao nghe nhói ở trong tim.


Hình ảnh "trời xanh" là hình ảnh của thiên nhiên tồn tại mãi mãi, vĩnh hằng, là hình ảnh ẩn dụ khẳng định Bác là trời xanh, cũng giống như Bác là mùa xuân, là mặt trời….


Viến Phương dùng hình ảnh ẩn dụ, so sánh Bác với bao nhiêu hình ảnh kì vĩ, lớn lao là để khẳng định cái vô cùng cao cả và sức sống vĩnh hằng của Người “Bác sống như trời đất của ta…”. Bác còn mãi với non sông, đất nước như trời xanh. Người hóa thân vào thiên nhiên mây núi để trở thành hồn thiêng dân tộc.“Vẫn biết” là đã nhận thức được như thế nhưng lí trí không điều khiển được cảm xúc, tình cảm xót thương không chấp nhận sự mất mát, ra đi mãi mãi của Người. Nỗi đau được nhà thơ thể hiện thông qua nghệ thuật chuyển đổi cảm giác:


Mà sao nghe nhói ở trong tim!


Cấu trúc tương phản "Vẫn ... mà" kết hợp với dấu chấm than ở cuối khổ thơ đã diễn tả tình cảm thật chân thành. “Nghe nhói” là nỗi đau có thể cảm giác được, nỗi đau tinh thần được cụ thể hóa bằng nỗi đau thể xác. Trong tâm hồn dân tộc, Bác còn sống mãi nhưng thực tế chúng ta đã vĩnh biệt Người - vị lãnh tụ vĩ đại, người cha già kính yêu. Đó là mất mát lớn lao không gì bù đắp được! Đã bao năm qua kể từ khi Bác mất, thời gian tưởng có thể làm nguôi ngoai song tình cảm đau xót, tiếc thương của nhà thơ Viễn Phương vẫn thật thấm thía. Niềm riêng này của nhà thơ cũng là nỗi lòng chung của tất cả chúng ta, của bao người đã từng khóc ròng khi Bác mất năm xưa:


  • Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa.


(Bác ơi - Tố Hữu)


  • Bác đã đi rồi sao bác ơi!


Mùa thu đang đẹp nắng xanh trời.


(Bác ơi – Tố Hữu)


Bài thơ kết thúc trong tình cảm thương nhớ và lưu luyến không rời của Viễn Phương với bác. Đây cũng là dòng cảm xúc được đẩy tới mức cao trào nhất, tuôn trào nhất.


Mai về miền Nam thương trào nước mắt.


Người con trai trong ca dao xưa mỗi bước xa quê là nỗi nhớ nhung tha thiết: “Anh đi anh nhớ quê nhà…” tình cảm ấy tưởng đã là sâu nặng. Còn đây, Viễn Phương chưa xa mà đã nhớ, đang đứng trên đất Bắc mà đã nghĩ tới lúc bịn rịn chia tay thì tình cảm thương nhớ càng chan chứa biết bao nhiêu. Cảm xúc cất lên thành lời trực tiếp “thương trào nước mắt”. Chữ “thương” giản dị mà xúc động. Niềm thương không chỉ là cảm xúc dâng ngập trong tâm hồn mà trào lên thành “nước mắt” phải chăng vì cảm thông được niềm ao ước bấy lâu về một ngày thống nhất vẫn nặng lòng Bác lúc ra đi; thương vì Bác chưa thỏa ước nguyện thấy nhân dân được hưởng sự sung sướng, hạnh phúc khi Bắc Nam sum họp một nhà. nhà thơ không cầm lòng được bởi chưa có ngày: “Đón Bác vào thăm thấy Bác cười”. Trong niềm thương nhớ rưng rưng ấy, nhà thơ bày tỏ:


Muốn là con chim hót quanh lăng Bác


Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây


Muốn làm cây tre chung hiếu chốn này.


Mong ước của Viễn Phương được diễn tả bằng điệp ngữ “muốn làm” đã tạo nhạc điệu ngân dài, vang mãi trong khổ thơ, diễn tả tình cảm lưu luyến không rời của Viễn Phương với Bác. Ta gặp một lần nữa những hình ảnh thiên nhiên quen thuộc, bình dị: “con chim”, “cành hoa” . Trong thơ Thanh Hải “con chim”, “cành hoa” là ẩn dụ chỉ ước nguyện sống đẹp, cống hiến phần tinh túy dù nhỏ bé của mình cho cuộc đời chung. Viến Phương ước làm con chim, làm hoa, làm tre để cất tiếng hót, tỏa hương thơm, trang nghiêm bên giâc ngủ Người. Bằng cách đó nhà thơ đã tỏ lòng kính yêu và biết ơn Bác vô cùng sâu sắc. Ba câu thơ mà ngập tràn âm thanh, hương thơm, bóng mát. Tưởng như bầy chim vì Người mà cất tiếng, đóa hoa vì Người mà tỏa hương, cây tre vì Người mà xòa bóng. Tất cả như đang vây quanh Bác, đón nhận ánh sáng từ vầng “mặt trời trong lăng rất đỏ. Tất cả như đang dâng hiến bên một cuộc đời đã dâng hiến hết mình cho đất nước nhân dân. Lời thơ đã kép lại mà nhạc điệu ngân nga “muốn làm”, “muốn làm”, “muốn làm”.


Câu thơ cuối cùng có cái chắc khỏe của một lời hứa. Cao hơn lời hứa là một lời thề - lời thề “trung hiếu”.


Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.


Hình ảnh “cây tre trung hiếu” gợi đến người con trung kiên, hiếu nghĩa, một lòng vì nước vì dân. Khổ thơ do đó không chỉ bộc lộ tình cảm thương nhớ, lưu luyến mà còn biểu đạt một cách xúc động tình cảm thủy chung, son sắt của nhà thơ, của nhân dân miền Nam, nhân dân cả nước với Bác Hồ vô vàn kính yêu.


Bài thơ được viết theo thể tám chữ (có dòng bảy chữ, chín chữ), có sự kết hợp giữa chất trữ tình và tự sự; giọng thơ biến đổi linh hoạt: lúc thì sâu lắng, tự hào, khi thì xót xa, tiếc nuối, lúc lại khát khao mạnh mẽ, rất phù hợp với việc diễn tả tình cảm, cảm xúc từ khi bắt đầu cho tới khi kết thúc cuộc viếng thăm... Tác phẩm có sử dụng rất nhiều những hình ảnh sáng tạo, với hệ thống những hình ảnh tả thực và biểu tượng (hàng tre, trời xanh, mặt trời, vầng trăng...) giàu giá trị tạo hình và gợi cảm xúc. Đồng thời toàn bộ bài thơ rất giàu tính chất nhạc điệu nên thi phẩm đã được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ thành bài hát và trở thành một khúc ca đẹp về chủ tịch Hồ Chí Minh.


Viếng lăng Bác là một bài thơ hay bởi nó được tạo ra từ những cảm xúc, rung động chân thành của trái tim nhà thơ, đồng thời cũng là tiếng lòng của tất cả chúng ta. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Bác Hồ như một thiên thần thoại của thế kỉ XX. Chủ tịch Hồ Chí Minh là con người Việt Nam đẹp nhất! Một nhà thơ của đất nước Cu-ba anh em đã tự hào khẳng định: “Hồ Chí Minh - tên Người là cả một niềm thơ!”




Giáo viên : Lê Thị Khuyến


Email: [email protected]




Đề bài : Cảm nhận về bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh








Bài làm


Mùa thu luôn là đề tài khiến thi nhân phải động lòng thương yêu bởi đó là mùa của những gì nhẹ nhàng và dịu êm nhất, mùa của sự tĩnh lặng và những rung động sâu sắc nhất. Mùa thu đi vào thơ Nguyễn Khuyến bình dị, gần gũi; còn mùa thu của Hữu Thỉnh qua bài thơ " Sang Thu” thật đẹp, thật nên thơ và trữ tình .


Bài thơ biểu hiện những cảm xúc tinh tế của nhà thơ khi đất trời chuyển mùa từ


hạ sang thu . Bức tranh thu được miêu tả bằng những bước chuyển mình đầy tinh tế


của vạn vật trước thời khắc giao mùa. Thời gian bao giờ cũng là quy luật và tất cả mọi


thứ đều phải vận động theo quy luật ấy. Hình như các sự vật trong bài thơ cũng vậy,


chuyển mình vào thu một cách đầy chủ động.


Bài thơ mở đầu bằng một phát hiện bất ngờ:


Bỗng nhận ra hương ổi


Phả vào trong gió se


Sương chùng chình qua ngõ


Hình như thu đã về”


bỗng nhận ra hương ổi”- một trạng thái chưa hề được chuẩn bị, như là vô tình như là


sửng sốt như là cơ duyên để từ đây nhà thơ có thể quan sát xuất hiện của mùa thu trong


trời đất bằng tất cả giác quan và cũng chính từ góc nhìn này, hình ảnh của cả sự vật


sang thu được nhà thơ đưa vào ống kính.


Mở đầu là một làn hương thật đặc biệt của mùa thu Việt Nam, hương ổi – phả


vào gió buổi sớm. “Phả” – một động từ mang ý nghĩa chủ động tác động được dùng


như một cách khẳng định sự xuất hiện của hơi thu trong không gian. Sự góp mặt của


màn sương buổi sớm cùng với hương ổi làm con người chợt giật mình thảng thốt: Hình


như thu đã về. Hai đặc điểm để cảm nhận mùa thu Hương ổi, làn sương không phải là


những hình ảnh đã trở nên ước lệ nữa, mà là một chi tiết thật mới mẻ, bất ngờ. có lẽ, chỉ

với Hữu Thỉnh làn hương ổi rất quen của Việt nam mà rất lạ với nhà thơ được đưa vào thơ một cách tự nhiên. Cũng từ đây, một loạt những hình ảnh quen mà lạ ấy sẽ xuất


hiện để làm nên một bức tranh mùa thu đẹp đẽ và trong sáng vô vùng:


Sóng

được

lúc

dềnh

dàng

Chim

bắt

đầu

vội

đám

mây

mùa

hạ


Vắt nửa mình sang thu”


Toàn là những sự vật được lựa chọn để miêu tả cảnh đất trời vào thu đang ở trạng thái “ngập ngừng” nhưng sự ngập ngừng đầy chủ động. “Sông được lúc, chim bắt đầu, đám mây, vắt nửa mình” với cách diễn đạt này hình ảnh của sự vật không chỉ hiện lên ở thời điểm hiện tại mà còn dẫn ngu đọc liên tưởng về quá khứ của chúng, một quá khứ chưa xa “quá khứ màu hạ” và chắc rằng, đó là một quá khứ đầy sôi nổi. Khiến cho đâu đó trong không gian dâng lên một niềm tiếc nuối:


Vẫn

còn

bao

nhiêu

nắng

Đã

vơi

dần

cơn

mưa

Sấm

cũng

bớt

bất

ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi”





Nắng – hình ảnh cụ thể của màu hạ - đang là hiện tại nhưng mưa màu hạ đã trở


thành quá khứ. Trạng thái này của thời tiết lại một lần nữa như khẳng định sự ngập ngừng thì thời gian vẫn bước đi vô tình của nó, và hàng cây sẽ bớt bất ngờ nếu mọi ngày vẫn xanh là thế mà giờ đây đã trở thành “hàng cây đứng tuổi”. Hàng cây đứng tuổi – hình ảnh gợi lên ở người đọc nhiều liên tưởng về tuổi tác của con người. Thời gian trôi nhanh qua của, cuộc đời mỗi người là một chứng nhân nhìn mùa thu đi qua. Bởi thế, nuối tiếc vẫn mãi là cảm xúc của con người trước thời gian. Tâm trạng ấy đã được nhà thơ gửi vào cảnh vật, gửi vào trạng thái của thiên nhiên nhằm khắc họa thời khắc mà mọi vật đang chuyển mình sang thu. Điều này lí giải vì sao tát cả các sự vật

được khắc họa bằng hành động từ trạng thái với sắc thía nghiêng chủ động. Phải chăng những sự vật đang “sang thu” chứ không phải “đây mùa thu tới” hay “mùa đã thu rồi”.


Xưa nay mùa thu thường gắn liền hình ảnh chiếc lá vàng, ngõ đầy lá rụng, lá khô xào xạc và ta cứ ngỡ như chỉ những sự vật ấy mới là đặc điểm của mùa thu. Nhưng đến “sang thu” của Hữu Thỉnh, người đọc chợt nhận ra: Một làn hương ổi, một màn sương, một dòng song, một đám mây, một tia nắng những sự vật gần gũi thế cũng làm nên những đường nét rất riêng của mùa thu Việt Nam và điều này làm nên sức hấp dẫn cho bài thơ “Sang thu”


Sang thu” của Hữu Thỉnh đã không chỉ mang đến cho người đọc những cảm nhận mới về màu thu quê hương mà còn làm sâu sắc hơn tình cảm quê hương trong trái tim mọi người. “Sang thu” chính là một tấm gương trong để người đọc có thể nhìn thấy ở đó hình ảnh quê hương xứ sở mình, hình ảnh của tâm hồn mình. Miêu tả mùa thu bằng những bước chuyển mình của vạn vật, Hữu Thỉnh đã khuấy động một cách nhìn riêng, một lối miêu tả riêng, thoát khỏi những ước lệ để khẳng định vị trí của riêng mình trên con đường sáng tạo nghệ thuật.



Nguyễn Thu Trang – 9A2




Đề bài: Bài thơ “Con cò” của Chế Lan Viên là sự kết hợp giữa cảm hứng trữ tình dân gian và chất triết lí giản dị mà sâu sắc.


Bài làm







Là một tác giả có vị trí rất quan trọng trong nền văn chương nước nhà, hơn nửa thế kỉ sáng tạo nghệ thuật, Chế Lan Viên đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Tìm hiểu thơ Chế Lan Viên, chúng ta nhận thấy tính triết luận thể hiện từ cái nhìn sâu sắc, đa phương nhưng “không hề có cái đa nghĩa mơ hồ, run rẩy mà một số bài thơ ca thường có”, và lại là tính triết luận qua hình ảnh. Một trong những bài thơ cho thấy được ngòi bút tài hoa ấy là “Con cò”. Bài thơ là “sự kết hợp giữa cảm hứng trữ tình dân gian và chất triết lí giản dị mà sâu sắc”.


Rõ ràng, điều khiến “Con cò” trở nên đặc biệt không chỉ bởi tính triết luận thường thấy ở ông mà còn cả sự khơi nguồn từ cảm hứng trữ tình dân gian, ở đây cụ thể là lời ca dao. Ca dao là tiếng hát tâm trạng của người lao động xưa, nhất là những tâm tư, tình cảm, tâm trạng của người phụ nữ trong cuộc đời cơ cực. Tất cả nỗi niềm khổ đau, vất vả, khó nhọc, rồi tình yêu con, hay lời ca thán… người phụ nữ đều kí thác vào ca dao. Bởi thế nên, ca dao thấm đẫm chất trữ tình với thứ cảm xúc lan toả dường như có thể chạm đến mọi trái tim, có khi trực tiếp bằng những bài ca than thân bắt đầu từ “thân em”:


Thân em như trái mần trôi


Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu.”



hay có khi lại gián tiếp bằng hình ảnh con cò: con cò lặn lội, con cò lò dò, cất tiếng nỉ non… để rồi bộc lộ qua cách hát ru bên cánh võng, chiếc nôi làm xót xa, da diết lòng người:


À ơi


Cái cò cái vạc cái nông


Sao mày dẫm lúa nhà ông hỡi cò?


Không! Không tôi đứng trên bờ


Mẹ con cái diệc đổ ngờ cho tôi


À ơi…”



Và xúc cảm của Chế Lan Viên cũng bắt nguồn từ những vần điệu du dương như thế khi viết về tình mẹ thiêng liêng.


Bài thơ “Con cò” bắt nhịp từ lời ru bình dị, thân thương, êm đềm như tiếng đưa nôi muôn đời nay vẫn thế:


Con cò bay la


Con cò bay lả


Con cò Cổng phủ


Con cò Đồng Đăng.



Con cò ăn đêm,


Con cò xa tổ,


Cò gặp cành mềm


Cò sợ xáo măng…



À ơi!”



Khúc ru được điệp lại ba lần đầy sáng tạo. Vẫn là nỗi gian truân, vất vả, tần tạo, chịu thương chịu khó và tình yêu con rất mực của người mẹ nhưng được gợi ra trực tiếp từ những câu ca dao về con cò. Nó hiện thân cho người mẹ, người phụ nữ Việt Nam trong

cuộc sống lam lũ, nhọc nhằn nhưng giàu lòng nhân ái và đức hi sinh. Chính “con cò”, cùng âm hưởng da diết trầm bổng đặc trưng của khúc ru “à ơi” đậm chất truyền thống, đã khơi lên dòng chảy cảm xúc về tình mẹ, lòng mẹ lớn lao sâu nặng, cả cuộc đời hết lòng vì con.


Nhưng trong lời mẹ hát


Có cánh cò đang bay.”



Lời ru ngân lên nhịp nhàng, thong thả dường như chính là sự khởi đầu cho con đường đi vào thế giới tâm hồn con người. Vần thơ cất lên êm dịu và chan chứa tình cảm như những nốt nhạc cũng là để dỗ dành, vỗ về con đi vào giấc ngủ yên lành, gợi nên một cảm tưởng quen thuộc về hình ảnh làng quê Việt Nam thanh bình, về tình mẫu tử bình dị mà thắm thiết.


Thế nhưng, tác giả không đơn thuần dùng hình ảnh con cò tạo nên bức tranh đẹp về người phụ nữ mà còn để thay họ bộc bạch nỗi lòng người mẹ, như cách ca dao xưa vẫn thường gói ghém cảm xúc của con người:


Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân


Con chưa biết con cò, con vạc


Con chưa biết những cành mềm mẹ hát


Sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân.”



Giọng điệu tâm tình thật trìu mến thân thương đúng như cái chất của ca dao đã góp phần thể hiện tình yêu vô bờ bến và sự chở che của người mẹ. Để rồi, từ những lời ru đậm đà hơi thở, sức sống xuân như thế, mẹ gửi gắm những ước mơ, khát khao cho con trong tương lai, nhắn nhủ tình sâu nghĩa nặng: Dù mai này con ở đâu, dù đã lớn mẹ vẫn theo con, lòng mẹ ấm áp vẫn vì con mà dõi trông suốt mọi nẻo đường, suốt cả cuộc đời của mẹ:


Dù ở gần con,


Dù ở xa con,


Lên rừng xuống bể,


Cò sẽ tìm con,


Cò mãi yêu con.


Con dù lớn vẫn là con của mẹ,


Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con.”



Từ lời ru, con cò, tình mẹ đã sáng lên đầy ngọt ngào, yêu thương. Âm điệu trữ tình tha thiết qua những câu thơ ngắn, dài thấm đẫm chất ca dao – chất trữ tình dân gian. Rất truyền thống nhưng tình cảm biểu hiện của bài thơ lại ở tầm khái quát cao, có độ dài của thời gian năm tháng. Và rồi, tiếng ru không chỉ đọng lại trong kí ức trẻ thơ mà còn bay theo năm tháng lớn lên, trưởng thành của những đứa con, đem lại ý nghĩa sâu sắc nâng đỡ tâm hồn mỗi con người trong cuộc đời. Chính nhờ cảm hứng này mà về sau, chất triết lí vốn là dấu ấn của Chế Lan Viên càng trở nên đậm đà, thi vị, giàu xúc cảm.


Nếu ở phần đầu bài thơ, lời ru đậm chất ca dao-chất trữ tình dân gian thì đến phần cuối bài, lời ru được chắt lọc và kết lại nhiều suy ngẫm mang tầm triết lí giản dị mà sâu sắc. Qua lời ru, con cảm nhận được tình mẫu tử bất diệt, bao la biển trời, sẽ như những lời ca xưa đã thầm lặng theo con suốt dọc dài tuổi thơ mà mãi gắn sâu vào tâm hồn con, sẽ mãi vì con mà dạt dào yêu thương trìu mến:


Con dù lớn vẫn là con của mẹ,


Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con.”



Con lớn lên rồi không còn ở bên mẹ, sẽ như cánh cò kia “vỗ cánh qua nôi”, bay vào cuộc đời, bay cao, bay xa tới những chân trời mơ ước, tới nơi trời xanh, biển rộng, tới những miền đất đầy hứa hẹn nhưng không phải mái nhà ấm áp của con. Dù vậy, “nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” chẳng bao giờ vơi cạn, đứa con với mẹ là lẽ sống để sinh tồn. Con rời xa vòng tay mẹ nhưng sẽ không rời xa yêu thương của mẹ. Muôn đời vẫn vậy, có gì cao hơn núi, có gì sâu hơn biển và có gì bao la bằng lòng mẹ thương con. Trong mắt mẹ, con mãi là đứa trẻ bé bỏng ngày nào mẹ à ơi ru hời, là đứa trẻ mẹ mang nặng đẻ đau, là đứa trẻ mà mẹ từng và sẽ vẫn mãi săn sóc, ngóng trông theo từng bước đi trên chặng đường đời, sẵn sàng chở che, thứ tha, sẵn sàng là điểm tựa khi con vấp ngã, sẵn sàng hi sinh hạnh phúc của mình để bảo vệ hạnh phúc cho con, mà nào có bao giờ kể lể, nói ra nỗi lòng mình. Chữ “dù”, chữ “vẫn” được điệp lại, ý thơ càng nhấn mạnh một quy luật tình cảm vĩnh hằng: tình mẫu tử sắt son, bền chặt. Một lời khẳng định sắt đá, một chân lí bất biến đượm chất thơ, mở rộng thêm ý nghĩa của lời ru: không chỉ đem đến tình thương và sự vỗ về của mẹ mà còn là tâm hồn đất nước, dân tộc:


Nằm trong tiếng nói yêu thương


Nằm trong Tiếng Việt vấn vương một đời


Sơ sinh lòng mẹ đưa nôi


Hồn thiêng đất nước đã ngồi bên con.”



Từ một không gian ngày càng mở rộng đến một không gian tâm tưởng vừa bao la vừa sâu thẳm như chính lời ru hát lên từ trái tim người mẹ, triết lí về lời ru và tình mẫu tử đã ngân lên như thế. Tình mẹ gửi vào con sâu nặng như núi cao, mênh mông như biển rộng nhưng trong lời thơ lại là cách nói rất mộc mạc, không chữ nghĩa cầu kì, mở ra rồi lắng đọng nhẹ nhàng. Điều này có được là nhờ nhà thơ đã sử dụng lối diễn đạt bằng hình ảnh quen thuộc, gần gũi, gợi nên tiếng lòng chân thành, tha thiết: Mẹ là tổ ấm, mẹ là quê hương.


Có thể thấy, dù mẹ không bộc lộ trực tiếp những vất vả, khổ đau của đời mẹ nhưng qua lời thơ, từ những “cành mềm mẹ hát” cho đến “con cò mẹ hát - Cũng là cuộc đời – Vỗ cánh qua nôi”, người đọc hiểu được rằng cánh cò kia chất chứa bao nông sâu của cuộc đời mẹ. Kết hợp với nhạc điệu lời ru lặp lại xuyên suốt bài thơ mang nét vừa dân gian vừa hiện đại, vẻ đẹp của hình ảnh con cò trở nên một hình tượng thống nhất tuyệt vời giữa tình cảm, hành động và ước mơ, nhờ lời ru mà được khắc thêm đậm nét. Hình ảnh tuy không mới nhưng được khơi nguồn từ mạch ca dao trữ tình nên đánh giá tác phẩm là sự kết tinh giữa nguồn cảm hứng trữ tình dân gian với chất triết lí giản dị, sâu sắc là hoàn toàn xác đáng. Nhờ đó, đề tài về tình mẹ và vai trò của lời hát ru như càng in sâu vào tâm trí bạn đọc, ca ngợi tình mẫu tử bao la và những ước mơ về con thơ của mẹ hiền, nói lên tình thương cuộc đời. Rất nhân hậu và cũng thật ân tình:


Ta đi trọn kiếp con người


Cũng không đi hết những lời mẹ ru.”



Đọc bài thơ “Con cò”, những gì lắng lại trong trái tim người đọc không chỉ về một thi phẩm đẹp, sáng tạo với sự thiết tha trong cảm hứng trữ tình, chiều sâu của chất triết lí giản dị; không chỉ về một Chế Lan Viên vẫn luôn lấp lánh vẻ đẹp riêng của trí tuệ và tài hoa. Đi vào lòng người, bài thơ càng khắc sâu thêm về tình mẹ, để rồi củng cố, nhắc nhở con người ta chữ hiếu, cái đạo làm người:


Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc


Đừng để buồn lên mắt mẹ nghe không?”




Giáo viên: Vũ Thị Thu Hiền


Gmail: [email protected]


Đề bài



Cảm nhận của em về vẻ đẹp của nhân vật VN trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ




Bài làm




Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ được coi là “Áng thiên cổ kì bút”, là một trong 11 truyện viết về người phụ nữ. Một trong những hình tượng xuyên suốt của tác phẩm là người phụ nữ có phẩm hạnh tốt đẹp mà số phận nhỏ nhoi, bất hạnh. Tiêu biểu trong số đó là “Chuyện người con gái Nam Xương”. Nhân vật trung tâm của truyện là nàng Vũ Nương – Người phụ nữ có vẻ đẹp hoàn thiện mà phải chịu bao nỗi oan khiên, để lại nhiều cảm thương cho người đọc


Chuyện người con gái Nam Xương” là thiên thứ 16 và là thiên tiêu biểu trong tập sáng tác này. Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, “Chuyện người con gái Nam Xương” thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ. Tác phẩm là một áng văn hay, thành công về nghệ thuật dựng truyện, miêu tả nhân vật, kết hợp tự sự với trữ tình.


Ngay từ lời mở đầu của tác phẩm, Nguyễn Dữ đã dành những lời trân trọng nhất để giới thiệu về Vũ Nương. Đó là người phụ nữ đẹp người, đẹp nết “tính đã thuỳ mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”. Dù Nguyễn Dữ không miêu tả Vũ Nương bằng chi tiết cụ thể mà chỉ qua cụm từ “tư dung tốt đẹp” và hành động của Trương Sinh: “xin mẹ trăm lạng vàng để cưới nàng về làm vợ” cũng đủ để cho người đọc hình dung về chân dung đẹp đẽ của Vũ Nương vừa đằm thắm, vừa mặn mà – nét đẹp đặc trưng của người phụ nữ thôn quê ngày xưa.


Nếu người con gái là một bông hoa, thì Vũ Nương là một bông hoa vừa hữu sắc vừa toả hương. Nhà văn Nguyễn Dữ đã đặt Vũ Nương vào các tình huống cụ thể để làm nổi bật vẻ đẹp nhân cách, phẩm giá của nàng. Đó là người phụ nữ thuỷ chung son sắt, mang nặng tình nghĩa vợ chồng; một nàng dâu hiếu thảo; một người mẹ hết mực yêu thương con. Trong cuộc sống vợ chồng, Vũ Nương là người phụ nữ khéo léo. Nàng luôn lựa tính chồng, biết Trương Sinh đa nghi, hay ghen nên nàng luôn “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Nàng luôn giữ cho tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui. Nàng là một người vợ hiền thục, khôn khéo, nết na đúng mực!


Vũ Nương là người phụ nữ yêu chồng tha thiết. Khi Trương Sinh đi lính, nàng đã nói với chồng những lời đằm thắm, chân tình khiến ai cũng ứa hai hàng lệ. Nỗi mong muốn lớn nhất của nàng là “ Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Ước mong của nàng thật bình dị, lời lẽ dịu dàng ấy, chứng tỏ nàng luôn coi trọng, khao khát hạnh phúc gia đình mà xem thường mọi công danh phù phiếm. Nàng còn tưởng tượng ra những gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng nơi biên ải trong nỗi khắc khoải, lo lắng, xót xa, nhớ nhung đầy cảm động: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng”. Qua lời nói thuỳ mị, dịu dàng thể hiện ngay từ hình thức câu văn biền ngẫu từng nhịp đối xứng khoan hoà như nhịp đập trái tim. Nàng cũng bộc lộ nỗi khắc khoải nhớ chồng của mình: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Đúng là lời nói, cách nói của một người vợ hết mực thùy mị, dịu dàng. Trái tim ấy giàu lòng yêu thương, biết chịu đựng những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa, thật đáng trân trọng biết bao!


Khi vắng chồng, Vũ Nương luôn là người phụ nữ thuỷ chung, giữ gìn tiết hạnh. Nguyễn Dữ miêu tả thật xúc động nỗi niềm thương chồng, nhớ chồng triền miên theo thời gian: “thoắt đã nửa năm mà nỗi buồn góc bể, chân trời không thể nào ngăn được”. Mùa đông ảm đạm, mây che kín núi, làm lòng nàng dằng dặc buồn thương. Ngay cả mùa xuân tươi vui, “bướm lượn đầy vườn” cũng không làm lòng nàng vui lên được. Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho chính mình đêm ngày phải đối mặt với nỗi cô đơn vò võ. Tâm trạng nhớ thương, đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay:


"… Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời


Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu


Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong…"


(Chinh phụ ngâm khúc )


Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung, thương nhớ đợi chờ chồng của nàng.


Hơn nữa, Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo với mẹ chồng, một người mẹ hiền đầy tình yêu thương con. Trong ba năm chồng đi chiến trận, một mình nàng vừa làm con vừa làm cha vừa làm mẹ để chăm sóc phụng dưỡng mẹ chồng, nuôi dạy con thơ. Với mẹ chồng, Vũ Nương xứng đáng là một cô con dâu hiếu thảo. Khi chồng xa nhà, nàng đã thay chồng phụng dưỡng mẹ chu đáo. Khi bà cụ ốm nàng đã hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật và lấy những lời khôn khéo để khuyên lơn để bà vơi bớt nỗi nhớ thương con. Đến khi mẹ mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng hệt như với cha mẹ đẻ của mình. Cái tình ấy có thể cảm thấu cả trời đất cho nên trước lúc chết người mẹ ấy đã trăng trối những lời yêu thương, động viên, trân trọng, đánh giá cao phẩm hạnh của nàng: “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống

dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ lòng con như con đã chẳng phụ mẹ con dâu". Tất cả những việc làm đó của nàng đâu chỉ vì trách nhiệm mà xuất phát từ tình cảm thực sự nàng dành cho mẹ. Điều đó khiến người đọc không khỏi cảm động. Với bé Đản – đứa con ra đời khi cha nó đi chinh chiến nên nàng hết sức yêu thương, chăm chút. Sau khi xa chồng đầy tuần, nàng sinh bé Đản, một mình gánh vác cả giang sơn nhà chồng nhưng chưa khi nào nàng chểnh mảng việc nuôi dạy con cái, nàng cố gắng bù đắp cho con tất cả. Chi tiết hằng đêm nàng chỉ bóng mình trên vách và bảo đó là cha Đản cũng xuất phát từ tấm lòng của người mẹ: để con trai mình bớt đi cảm giác thiếu vắng tình cảm của người cha.


Không chỉ mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thồng, ở Vũ Nương còn có những vẻ đẹp khác đáng trân trọng. Khi Trương Sinh đi lính, bao gánh nặng dồn cả lên vai Vũ Nương, nàng vừa sinh con, chăm con, chờ chồng, nuôi mẹ, lại một mình lo ma chay khi mẹ chồng nằm xuống. Phải là người phụ nữ đảm đang, tháo vát và nghị lực lắm, Vũ Nương mới có thể xoay sở, sắp đặt mọi chuyện chu toàn đến thế. Điều đáng quý ở Vũ Nương là lối sống thuỷ chung, ân nghĩa. Ngay cả khi trở thành tiên nữ dưới thuỷ cung, nàng vẫn nặng tình với cuộc đời và thương nhớ quê nhà. Vừa gặp Phan Lang, nghe Lang kể về tình cảnh gia đình, nhà cửa cây cối thành rừng, phần mộ tổ tiên cỏ gai rợp mắt, nàng đã ứa nước mắt xót thương rồi quả quyết “tôi tất phải tìm về có ngày”. Cũng vì trọng ân nghĩa, cả cái đức cưu mang của Linh Phi mà nàng “thề sống chết cũng không bỏ”, nguyện trọn đời, trọn kiếp ở bên Linh Phi



Vũ Nương còn có phẩm chất đáng quý nữa là trọng danh dự, sống có tự trọng. Vì coi trọng thanh danh mà nàng dùng cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình và cũng vì trọng danh dự, muốn mình không phải mang vết nhơ nên trước khi trẫm mình xuống dòng sông, nàng đã tắm gội chay sạch và muốn nước sông rửa sạch nỗi oan khuất cho mình. Bên cạnh đó, Vũ Nương còn có trái tim nhân hậu, bao dung. Với Trương Sinh, người chồng đa nghi, tàn nhẫn đã ruồng rẫy, đã khiến nàng rơi vào bước đường cùng. Vũ Nương trước sau không một lời oán giận. Bị chồng đánh đuổi nàng chỉ một mực kêu oan: “Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu.....cách biệt ba năm giữ gìn


một tiết.....”. Những lời nói nhún nhường tha thiết đó cho thấy thái độ trân trọng chồng,


trân trọng gia đình nhà chồng, niềm tha thiết gìn giữ gia đình nhất mực của Vũ Nương. Sau này, khi Trương Sinh lập đàn giải oan ở bến sông, nàng đã hiện lên trên mặt nước lần cuối để gặp chàng, nói lời đa tạ đã giải oan cho mình. Sự trở về dù trong giây lát cũng đủ cho thấy Vũ Nương có lòng độ lượng, vị tha biết mấy.


Trong tác phẩm, Vũ Nương hiện lên với nhiều phẩm chất tốt đẹp: một người vợ thuỷ chung, một người mẹ đảm đang, một con dâu hiếu thảo, con người trọng tình trọng nghĩa,...Vẻ đẹp của Vũ Nương là vẻ đẹp tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Có thể thấy, lần đầu tiên trong lịch sử văn học, lấy người phụ nữ bình dân làm trung tâm của tác phẩm văn học. Nguyễn Dữ đã dùng những ngôn từ đẹp nhất để ngợi ca phẩm hạnh đáng quý nhất của họ. Đây là tư tưởng tiến bộ vượt bậc, đi trước thời đại của Nguyễn Dữ. Làm cho tác phẩm của ông mang giá trị nhân đạo, nhân văn cao cả.Vẻ đẹp của Vũ Nương đã làm đẹp thêm cho kho tàng văn học viết về người phụ nữ. Nguyễn Dữ không sử dụng bút pháp ước lệ, vẻ đẹp của Vũ Nương chân thực, giản dị, hết sức đời thường. Nói như Giáo sư Nguyễn Đăng Na: “Vũ Nương không phải là một trang liệt nữ nhưng mang vẻ đẹp của người phụ nữ”. Vũ Nương là người phụ nữ có vẻ đẹp hoàn thiện cả về tư dung và phẩm chất.


Vũ Nương được xây dựng như một tấm gương mẫu mực, có thể coi là “khuôn vàng thước ngọc” về phẩm chất của người phụ nữ trong xã hội phong kiến nhưng hạnh phúc gia đình đã không mỉm cười với nàng, đã đẩy nàng vào vòng oan nghiệt khiến nàng rơi vào vòng bi kịch. Lấy chồng chưa được bao lâu thì chồng nàng có “tên trong sổ lính đi vào loại đầu”. Vũ Nương chỉ được sống những phút giây hạnh phúc ngắn ngủi. Chiến tranh đã chia lìa đôi vợ chồng trẻ. Suốt ba năm, nàng chịu cảnh vò võ chờ chồng.



Nàng thiếu phụ tuổi xuân còn phơi phới đã phải gánh chịu nỗi buồn “chiếc bóng năm canh” của đời người chinh phụ.


Mặt biếng tô miệng càng biếng nói


Sớm lại chiều dòi dõi nương song


Nương song luống ngẩn ngơ lòng


Vắng chàng điểm phấn tô hồng với ai


(Chinh phụ ngâm khúc)


Ba năm đằng đẵng, một mình vất vả, cáng đáng công việc gia đình. Ca dao xưa có câu:


Có con phải khổ vì con


Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng”


Vũ Nương đã phải thay chồng đảm đương những công việc lớn, thay chồng chăm sóc mẹ lúc đau ốm, lại lo ma chay khi cụ bà qua đời. Nàng một mình xoay sở vừa sinh con, vừa chăm con mà không được chồng đỡ đần. Nàng đúng là người phụ nữ lí tưởng của gia đình, xứng đáng được hưởng hạnh phúc đoàn viên nhưng khi chồng trở về cũng là lúc Vũ Nương chịu bao oan khuất, bất hạnh


Vũ Nương còn là nạn nhân của sự hiểu lầm, nàng bị chồng nghi ngờ là thất tiết. Đây là nỗi oan khiên tày trời của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Thói thường “đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”, câu chuyện của bé Đản, đứa con trai vừa lên ba tuổi, về “ một người đàn ông đêm nào cũng đến” đã làm cho Trương Sinh hồ đồ. Với bản tính hay ghen cộng thêm tính gia trưởng, thất học, Trương Sinh đã đối xử với vợ hết sức tàn nhẫn. Giấu biệt lời con nói, Trương Sinh đã “ mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi” mặc cho Vũ Nương hết sức phân trần, mặc cho “hàng xóm can ngăn cũng chẳng ăn thua gì”. Ngay cả cái quyền tự bảo vệ mình nàng cũng không có. Lời nói của nàng thâu tóm những đau đớn, tuyệt vọng của đời người phụ nữ không biết ngỏ cùng ai: “nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió”, “khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa…” . Hàng loạt các từ ngữ mang ý nghĩa chỉ sự chia lìa, tan vỡ được sử dụng: tạnh, tan, rơi, gẫy, rủ, tàn đã cho thấy hạnh phúc gia đình, thú vui “nghi gia nghi thất” mà cả đời nàng khao khát đã tan vỡ, ngay cả nỗi đau khổ chờ chồng đến hoá đá như trước kia cũng không thể trở lại được nữa. Tất cả đã tuột khỏi vòng tay nàng, khiến nàng rơi vào tuyệt vọng.


Bị chà đạp về thể xác, nhục mạ về tinh thần, không còn con đường nào khác, Vũ Nương phải tìm đến cái chết để chứng minh cho tấm lòng trong sạch của chính mình! Còn gì đớn đau, còn gì bi thương hơn thế??? Đây là hành động tiêu cực nhưng xuất phát từ ý thức trọng danh dự ở Vũ Nương. Đối với nàng, phẩm giá, danh dự còn cao hơn cả mạng sống. Lời than của nàng trước khi gieo mình xuống sông tự vẫn như lời nguyền cất lên từ nỗi lòng của kẻ bạc mệnh xấu số, thể hiện sâu sắc thân phận bi kịch không lối thoát của người phụ nữ trong xã hội phong kiến: “kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con ruồng rẫy, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám”. Lời than của Vũ Nương thật thấm thía làm sao. Nó diễn tả nỗi khát vọng đã thành tuyệt vọng của nàng và nước mắt đồng cảm của Nguyễn Dữ trước nỗi đau khổ, bất hạnh của con người. Mấy trăm năm đã trôi qua nhưng lời than của nàng còn vọng đến chúng ta bởi niềm thương xót.


Thật ra, nỗi bất hạnh của Vũ Nương không phải bắt đầu ở tấn bi kịch này. Nỗi bất hạnh đến với Vũ Nương từ khi nàng chấp nhận cuộc hôn nhân với Trương Sinh. Từ đầu, ta đã nhận ra đây là một cuộc hôn nhân không bình đẳng. Vũ Nương vốn “con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”, còn Trương Sinh muốn lấy được Vũ Nương chỉ cần “nói với mẹ đem trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ”. Sự cách biệt ấy cộng thêm cái thế của người chồng, người đàn ông trong chế độ nam quyền phong kiến đã khiến cho Trương Sinh tự cho mình cái quyền đánh đuổi vợ không cần có chứng cứ rõ ràng. Trong những ngày làm dâu nhà họ Trương, Vũ Nương cũng đâu hạnh phúc hơn gì! Nàng phải luôn chịu đựng sự xét nét, sự “phòng ngừa quá sức” của chồng. Hình như số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa đều có chung nỗi bất hạnh như thế!


Kết thúc tác phẩm có thể tạm coi là kết thúc có hậu khi Vũ Nương được cứu sống, lưu lại tại thuỷ cung. Điều đó thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân: “Ở hiền gặp lành”. Tuy nhiên, kết thúc này vẫn không làm giảm đi tính bi kịch của tác phẩm. Vũ Nương trở về uy nghi, rực rỡ nhưng sau lời tạ từ ngậm ngùi: “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa, bóng nàng long loáng rồi biến mất”. Như vậy, Vũ Nương không chết nhưng cũng không bao giờ được sống tại quê nhà, còn được hưởng hạnh phúc gia đình mà nàng luôn khao khát. Sự dứt áo ra đi của Vũ Nương gián tiếp thể hiện thái độ phủ định cõi trần thế, với xã hội phong kiến bất công đương thời, nơi mà người phụ nữ không thể có hạnh phúc. Kết thúc câu chuyện bi đát này là một khoảng vắng mênh mông, mờ mịt… Đằng sau yếu tố hoang đường, câu chuyện về nàng Vũ Nương mang đậm tính hiện thực và thấm đẫm tinh thần nhân đạo.


Tác phẩm đã xây dựng thành công nhân vật Vũ Nương – một điển hình sâu sắc cho số phận bi thương của người phụ nữ trong xa hội cũ. Về mặt nghệ thuật, Nguyễn Dữ đã xây dựng nhân vật Vũ Nương bằng bút pháp lí tưởng hoá với vẻ đẹp hoàn thiện. Bên cạnh đó, nhà văn cũng dùng lối hiện thực hoá để xây dựng nhân vật bởi Vũ Nương cũng là nhân chứng đau thương cho kiếp đời người phụ nữ trong xã hội cũ. Tác phẩm mang giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc khi nhà văn vừa ngợi ca nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, vừa cất lên tiếng kêu bi thương cho số kiếp nhỏ nhoi của họ, vừa lên án, tố cáo xã hội phong kiến tàn bạo đã đẩy người phụ nữ vào đường cùng không lối thoát.



Nhân vật Vũ Nương là một trong những hình tượng người phụ nữ Việt Nam đẹp nhất trong văn học trung đại. Cuộc đời, số phận bi thảm của nàng để lại trong lòng người đọc nhiều xót xa, thương cảm. Đúng như lời Nguyễn Du đã tổng kết:


Đau đớn thay phận đàn bà





Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”


Trong xa hội hiện đại, người phụ nữ đã dần khẳng định được vị trí của mình nhưng vẫn rất cần tiếng nói đấu tranh cho bình đẳng giới để cuộc đời người phụ nữ thực sự là những khúc ca vui.



Gv: Nguyễn Thị Thủy


Gmail: [email protected]






PHÂN TÍCH BÀI THƠ VIẾNG LĂNG BÁC:






Chủ tịch HCM là nhân vật lịch sử vĩ đại nhất của dân tộc việt Nam thế kỉ 20 Người đã để lại trong lòng nhân dân Việt Nam hình ảnh một vị cha già hiền từ, một tên gọi Bác thân thiết. Người là hiện thân của những gì mạnh mẽ và cao quý nhất của dân tộc. Lăng người trở thành nơi lưu giữ hình ảnh người lúc sinh thành nơi chiêm ngưỡng thành kính của nhân dân thế giới đồi với người, biết bao nhà thơ đã làm thơ về người, về lăng người, và “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một trong số những bài đặc sắc. Bài thơ là lòng thành kính thiêng liêng của viễn phương và của đồng bào ta đối với bác khi vào lăng viếng bác.


Viễn Phương (1928-2005) tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, quê xã Bình Đức, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, ông hoạt động ở Nam Bộ , là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng vănnghệ giải phóng ở miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ Viễn Phương thường nhỏ nhẹ, giàu tình cảm.


Bài thơ “Viếng lăng Bác” là bài thơ tiểu biểu của ông. Bài thơ được viết vào tháng 4 năm 1976, một năm sau ngày giải phóng miền Nam, đất nước vừa được thống nhất. Đó cũng là khi lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa được khánh thành. Tác giả là một người con của miền Nam,

được ra viếng lăng Bác, tình cảm yêu thương, kính trọng đối với Bác trở thành nguồn cảm hứng để ông sáng tác bài thơ này. Bài thơ được In trong tập thơ “Như mây mùa xuân” (1978)


Mở đầu bài thơ là cảm xúc của tác giả khi lân đầu tiên được ra thăm lăng Bác


Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”



Câu thơ mở đầu giản dị tự nhiên nhưng nghe thật xúc động: “ Con ở miền Nam ra thăm lăng bác” Nhan đề bài thơ là viếng lăng bác nhưng câu thơ mở đầu lại dùng “thăm lăng bác”. “Viếng” đến để thắp hương tưởng nhớ người đã khuất còn “thăm” đến để hỏi han sức khỏe người còn sống. Trong trái tim của nhà thơ và hàng triệu đồng bào miền Nam bác vẫn sống, vẫn đồng hành cùng dân tộc.


Chi tiết thơ “con ở miền Nam” thật bùi ngùi xúc động. Khúc ruột miền Nam là miền đất xa xôi mà Bác không nguôi ngóng chờ, cho đến những ngày trước lúc lâm chung thì trái tim người vẫn luôn huớng về mìền Nam ruột thịt. Nơi đó có biết bao đồng bào ta đang ngày đêm chiến đấu và anh dũng hy sinh vì một ngày mai nước nhà thống nhất.


Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà


Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”



Hôm nay nước nhà đã độc lập con đã về đây, bác ơi. Như vậy là từ mảnh đất miền nam mấy chục năm trời chia cắt bởi chiến tranh tàn khốc, hôm nay người con miền Nam mới có dịp ra “ ra thăm lăng Bác”. Nhà thơ xưng “con” và gọi “Bác” lời thơ giản dị, mộc mạc mà chất chứa bao tình cảm gần gũi, thân thương, kính trọng. Tình cảm trong câu thơ quả đúng là tình cảm của một đứa con ở xa mà nỗi niềm ấp ủ bấy lâu nay chỉ chờ gặp lại bóng dáng thân yêu của người cha già là trào dâng thổn thức.


Và trong niềm xúc động trào dâng ấy, trong cái mênh mang sương mù của mọt ngày mùa thu Hà Nội, qua con mắt thi nhân, ta chợt tìm thấy một “hàng tre” bát ngát.







Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát


Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam


Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”



Đến với Bác, đến với hàng tre, ta như đến với quê hương làng mạc, đến với mái nhà tranh âm vang lời ru của bà, của mẹ; đến với Bác là đến với dân tộc mình, thế mới đẹp làm sao! Hình ảnh nhân hoá, ẩn dụ “hàng tre xanh xanh “bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” còn là biểu tượng bất diệt của con người VN kiên cường, bất khuất biền bỉ. Màu xanh của tre chính là màu xanh của sức sốg VN, màu xanh của hy vọng, hạnh phúc và hoà bình. Đây quả là một tứ thơ độc đáo, giàu ý nghĩa tượng trưng.


Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng


Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ


Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ


Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”



Cũng là “mặt trời” nhưng “mặt trời” ở câu thơ thứ nhất là mặt trời của thiên nhiên vũ trụ, ngày ngày tỏ sáng, đem sự sống cho muôn loài, vạn vật, nó cũng có lúc quạnh quẽ, u ám. Còn “mặt trời” của nhận dân VN “mặt trời” trong lăng thì vẫn luôn chiếu ánh sáng vĩnh hằng, đỏ mãi. Bác chính là vầng mặt trời hồng toả tia sáng soi rọi con đừơng giúp dân tộc ta thoát khỏi kiếp đời nô lệ, là sức mạnh giúp nhân dân ta chèo lái con thuyền cách mạng cập bến vinh quang, đi đến bờ thắng lợi.


Biện pháp nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ đã thể hiện sự thành kính thiêng liêng của nhà thơ đối với Bác, ta tự hỏi tại sao nhà thơ viễn phương không ví Bác với trăng với sao mà lại ví Bác với mặt trời? chính là bởi trăng sao tuy có sáng nhưng không đủ để sưởi ấm, chỉ có vầng thái dương tỏa sáng và ấm áp mới xứng với sự vĩ đại của Bác, lấy mặt trời chỉ Bác nhà thơ ngầm ca ngợi và khẳng đinh sự trường tồn vĩnh hằng của hình ảnh Bác, thể hiện tấm lòng nhân dân nhớ Bác, kính yêu Bác.


Hình ảnh dòng người vào lăng viếng Bác được tác giả ví như tràng hoa dâng lên người. Những người vào lăng viếng bác không phải đến để viếng một con người đã từ trần mà đến để bày tỏ lòng thành kính thiêng liêng đối cuộc đời của người. Động từ dâng” đã nói lên điều ấy, hình ảnh tràng hoa dòng người là hình ảnh thật sáng tạo, bởi “người là hoa của đất”. “Bảy mươi chín” mùa xuân là một hình ảnh hoán dụ nghệ thuật sáng tạo, ấy là bảy mươi chín tuổi, bảy mươi chín năm của cuộc đời Bác đã cống hiến, hy sinh hết mình đối với dân tộc và nhân dân ta. Bác chính là mùa xuân, và mùa xuân ấy đã làm cho cuộc đời người dân VN nở hoa. Điệp ngữ “ngày ngày” đứng mỗi ý thơ giữ vị trí “nhãn tự”, vừa thể hiện một qui luật trình tự của dòng người vào lăng viếng Bác, lại vừa thể hiện một qui luật tự nhiên của tạo hoá.


Vào bên trong lăng Bác, thấy Bác đang nằm đó, nhà thơ lại một lần nữa cố giấu


tiếng nấc nghẹn ngào:


Bác nằm trong giấc ngủ bình yên


Mà sao nghe nhói ở trong tim”



Khung cảnh bên trong lăng thật êm dịu, thanh bình. Lúc này, trước mặt mọi người chỉ có hình ảnh Bác. Bác nằm đó trong giấc ngủ vĩnh hằng. Bác mất thật rồi sao? Không đâu. Bác chỉ nằm đó ngủ thôi, Bác chỉ ngủ thôi mà! Suốt bảy mươi chín năm cống hiến cho đất nước Bác chưa từng được ngủ ngon: Ta đã từng thấy Bác không ngủ trên con thuyền lênh đênh trên vượt đại dương để tìm đường cứu nước:


Đêm xa nước đầu tiên ai nỡ ngủ


Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương


Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở






Xa nước rồi càng hiểu nước đau thương”


(Người đi tìm hình của nước- Chế Lan Viên)



Rrồi ta còn thấy Bác không ngủ vì lo cho vận nước khi mà ngày tổng khởi nghĩa sắp tới gàn mà bản than còn chịu cảnh tù đày.


một canh hai canh lại ba canh


Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành


Canh bốn canh năm vừa chợp mắt


Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh”


Rồi Bác còn không ngủ vì:


thương cho đoàn dân công


Đêm nay ngủ ngoài rừng


Rải lá cây làm chiếu


Manh áo phủ làm chăn”


(Đêm nay Bác không ngủ -Minh Huệ)



Biết bao đêm Bác không ngủ, trái tim Bác luôn tràn ngập tinh yêu thương vì nhân dân vì dân tộc :



Chỉ biết quên mình cho hết thảy


Như dòng sông chảy nặng phù sa”,



Nay đất nước đã bình yên, Nam Bắc đã sum họp một nhà, đất nước nối liền một dải, Bác mới được ngủ một giấc ngủ ngon lành đến thế. Bao quanh giấc ngủ của Bác là một “vầng trăng sáng dịu hiền”. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho những năm tháng làm việc của Bác lúc nào cũng có





vầng trăng bên cạnh bầu bạn. Từ giữa chốn tù đày đến “cảnh khuya” núi rừng Việt Bắc, rồi “nguyên tiêu”…trăng là tri kỉ gắn bó, tuy vậy, Bác chưa bao giờ thảnh thơi để ngắm trăng đúng nghĩa. Khi thì “trong tù không rựơu cũng không hoa”, khi thì “việc quân đang bận”, khì thì “ lo nỗi nước nhà” . Chỉ có bây giờ, trong giấc ngủ yên, vầng trăng ấy mới thật sự là vầng trăng yên bình, để Bác nghỉ ngơi và ngắm. Trăng dịu hiền, soi sáng hình ảnh Bác. Vẫn biết là như thế, vẫn biết là Bác đang ngủ đấy thôi nhưng khi nghĩ về sự thật Bác đã ra đi nhà thơ vẫn thấy đau nhói trong tim:


Vẫn biết trời xanh là mãi mãi


Mà sao nghe nhói ở trong tim”



Trời xanh là vô tận, là mãi mãi , Bác vẫn sống đấy, vẫn còn dõi theo Tổ quốc mãi mãi như màu xanh thanh bình trên nền trời , Tổ quốc độc lập Bác như trời xanh, Bác là mãi mãi, Bác vẫn sống trong tâm tưởng mỗi chúng ta, Bác mãi hiện diện trên mỗi phần đất, mỗi nhành hoa, Bác đã hóa thân vào cỏ cây hoa lá, vào non sông gấm vóc để trường tồn cùng dân tộc. Nhưng con tim ta vẫn nhói đau vì một sự thật Bác đã ra đi. Một từ “nhói” của nhà thơ nói hộ ta nỗi đau đớn, nỗi đau vượt lên mọi lí lẽ, mọi lí trí. Bác mất thật rồi, ta không còn có Bác trong cuộc đời này nữa. Mất Bác, là mất mát lớn lao không gì bù đắp được. Tổ quốc ta đã thật sự không còn Bác dõi theo từng bước chân, không còn được Bác nâng đỡ mỗi khi vấp ngã. Bác ra đi, nỗi đau ấy liệu có từ ngữ nào diễn tả hết? Cả đàn con Việt Nam luôn tiếc thương Bác, luôn nhớ về Bác vĩ đại, hình ảnh Bác không thể xoá nhoà.


Khổ cuối bài thơ Viếng Lăng Bác thể hiện nỗi lòng của người con miền Nam đối với vị chủ tịch vĩ đại của đất nước.


Mai về miền Nam thương trào nước mắt Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác



Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây


Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”



Mới chỉ nghĩ đến mai về miền Nam mà tác giả đã “ Thương trào nước mắt”. Động từ " thương trào" đã thể hiện rất sâu sắc nỗi lòng của nhà thơ. Đây là một động từ mạnh, diễn tả cảm xúc mãnh liệt, là " trào" chứ không phải là " rưng rưng" hay " ngậm ngùi", là niềm thương cảm sâu sắc, là nỗi xót xa, đau đớn khi phải rời xa Bác trong lòng người con miền nam. Điệp từ " Muốn làm" được lặp lại 3 lần đã cho thấy niềm khát khao được ở bên Bác, được hóa thân vào những vật nhỏ bé nhưng vô cùng thân thương luôn luôn gần bên Bác. Người con miền Nam khao khát thành “con chim" để dâng tiếng hót, thành "bông hoa" để dâng sắc hương lên Bác. Đặc biệt là muốn hóa thân thành " cây tre trung hiếu", cho thấy ước vọng của người con miền Nam muốn được bên Bác, cống hiến tất cả cuộc đời mình cho sự nghiệp của quốc gia, dân tộc. Các tính từ trung, hiếu thể hiện phẩm chất tốt đẹp của con người việt Nam... Trung hiếu với Bác cũng chính là trung hiếu với nhân dân đất nước. Khát vọng của nhà thơ thật giản dị nhưng cũng thạt thiêng liêng xúc động. Ước vọng này không chỉ của riêng tác giả mà còn là của tất cả mọi người dân Việt Nam.


Bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương đã sống trong lòng độc giả hơn 40 năm nay và con lâu hơn nữa không chỉ bởi cảm xúc trân thành mãnh liệt mà còn bởi nghệ thuật rất đặc sắc. Bài thơ viết theo thể tự do. nhiều hình ảnh ẩn dụ, nhân hóa đẹp. Nhịp thơ linh hoạt, giọng thơ vừa trang trọng, thành kính, vừa tha thiết sâu lắng, vừa đau xót tự hào, ngôn ngữ thơ bình dị mà cô đúc. nhà thơ Viễn Phương đã bày tỏ được niềm xúc động cùng lòng biết ơn sâu sắc đến Bác trong một dịp ra miền Bắc viếng lăng Bác. Bài thơ là tiếng nói chung của toàn thể nhân dân Việt Nam


Tóm lại, bằng tất cả tình cảm chân thành, Viễn Phương đã làm “Viếng lăng Bác” trở thành một bản tình ca bất tận để lại ấn tượg sâu sắc cho bao người dân Việt Nam. Bài thơ hay






không chỉ vì các nghệ thuật độc đáo mà quan trọng hơn, đó là sự kết hợp nhuẫn nhị giữa cái “tâm” của một nguời con yêu nước và cái “tài” của người nghệ sĩ. Rất nhiều năm tháng đã đi qua nhưng mỗi thế hệ đọc “Viếng lăng Bác” đều đón nhận vào tâm hồn mình một ánh sáng tư tưởng, tình cảm của nhà thơ và đồng thời cũng thấm nhuần vẻ đẹp trong suốt, lấp lánh toả ra từ chính cuộc đời, trí tuệ và trái tim Bác Hồ.




Giáo viên: Bùi Thị Hằng Đơn vị: Trường THCS Cẩm Sơn


Email: [email protected]





Đề bài: Trình bày những cảm nhận của em về bức tranh thiên nhiên, hình ảnh đất nước và tấm lòng nhà thơ thể hiện trong đoạn thơ sau:





Mọc giữa dòng sông xanh


Một bông hoa tím biếc


Ơi con chim chiền chiện


Hót chi mà vang trời


Từng giọt long lanh rơi


Tôi đưa tay tôi hứng.






Mùa xuân người cầm súng


Lộc giắt đầy quanh lưng


Mùa xuân người ra đồng





Lộc trải dài nương mạ


Tất cả như hối hả


Tất cả như xôn xao.


Đất nước bốn nghìn năm


Vất vả và gian lao


Đất nước như vì sao


Cứ đi lên phía trước.



(Mùa xuân nho nhỏ" - Thanh Hải, Theo SGK Ngữ văn 9, Tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017)





Bài làm:


Mọc giữa dòng sông xanh


Một bông hoa tím biếc


Ơi con chim chiền chiện


Hót chi mà vang trời”



Mỗi mùa xuân về, lời ca ngọt ngào sâu lắng lại vang vọng khắp nơi khiến ta bồi hồi nhớ nhà thơ Thanh Hải. Trước khi ra đi, ông đã để lại 1 thi phẩm sống mãi với thời gian- bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”. Bài thơ là niềm yêu mến thiết tha với cuộc sống, với đất nước và nguyện hiến dâng những gì đẹp đẽ nhất cho đất nước của nhà thơ. Ba khổ

thơ đầu đã thể hiên một cách tinh tế, sâu lắng bức tranh thiên nhiên, hình ảnh đất nước và tấm lòng nhà thơ.


Mở đầu bài thơ, Thanh Hải miêu tả bức tranh thiên nhiên mùa xuân xứ Huế và bộc lộ cảm xúc của mình. Mùa xuân xứ Huế hiện lên thật thơ mộng, hữu tình với hình ảnh, màu sắc và âm thanh:


Mọc giữa dòng sông xanh


Một bông hoa tím biếc



Nếu trong truyện Kiều của Nguyễn Du, ta thưởng thức bức tranh xuân qua thảm cỏ non mơn mởn trải dài đến tận chân trời thì ở đây, ta lại được chiêm ngưỡng mùa xuân qua hình ảnh “dòng sông xanh” . Hình ảnh đó mở ra trước mắt người đọc một khung cảnh thiên nhiên thơ mộng, hữu tình với những khúc sông uốn lượn mềm mại trên dải đất miền Trung. Đó có thể là dòng sông Hương trong xanh đã làm nên vẻ đằm thắm dịu dàng của xứ Huế. Trên mặt nước trong xanh nổi bật hình ảnh “Một bông hoa tím biếc”. Không phải màu vàng tươi của hoa mai, cũng không phải màu đỏ thắm của hoa đào mà là màu tím biếc của 1 loài hoa bình dị. Màu hoa tím gợi cho ta liên tưởng tới những tà áo dài tím thướt tha của những cô gái Huế. Màu xanh của dòng sông, kết hợp với màu tím của bông hoa khiến bức tranh xuân có màu sắc hài hòa, dịu mát. Mùa xuân không chỉ đẹp mà còn tràn đầy sức sống. Nếu thi tiên Lí Bạch miêu tả sức xuân bằng hình ảnh “ngàn đóa muôn bông ép trĩu cành” thì Thanh Hải chỉ dùng “1 bông hoa” . Từ “một” chỉ số ít tạo nên thế đối lập giữa dòng sông mênh mông bà bông hoa nhỏ bé. Tuy vậy, người đọc không hề thấy sự nhỏ bé, yếu ớt của bông hoa mà ngược lại bông hoa thể hiện một sức sống vô cùng mãnh liệt. Đồng thời phép đảo ngữ đưa từ “mọc” với thanh trắc lên đầu câu càng khẳng định sức xuân đang trỗi dậy mãnh liệt khắp không gian. Bức tranh xuân không chỉ có đường nét, màu sắc mà còn có cả âm thanh. Tràn ngập không gian là bản nhạc mứng xuân của bầy chim chiền chiện:


Ơi con chim chiền chiện


Hót chi mà vang trời



Chim chiền chiện hót gọi mùa xuân về mang đến bao niềm vui. Âm thanh ấy gợi lên không khí mùa xuân thật tưng bừng, rộn rã.


Như vậy, chỉ bằng vài nét phác họa, tác giả đã vẽ lên một bức tranh xuân xứ Huế với màu sắc hài hòa dịu mát, với đường nét mềm mại và âm thanh tươi vui. Cảnh mùa xuân được mở ra với một không gian cao rộng nhưng lại đằm thắm dịu dàng, tươi mát. Đó là vẻ thơ mộng, tràn đầy sức sống của mùa xuân xứ Huế.


Trước bức tranh xuân tươi đẹp, nhà thơ không giấu nổi cảm xúc say sưa ngây ngất . Trước hết, cảm xúc của nhà thơ thể hiện qua việc phát hiện ra tín hiệu đặc trưng của mùa xuân. Động từ “mọc” được đảo lên đầu câu không chỉ nhấn mạnh sức xuân đang trỗi dậy mạnh mẽ mà còn như tiếng reo vui của nhà thơ khi nhận ra tín hiệu xuân về. Cảm xúc của thi nhân còn thể hiện qua niềm say sưa ngây ngất khi nghe chim chiền chiện hót. Thán từ “ơi” ngọt ngào tha thiết kết hợp với lời hỏi thân thương dịu dàng của người dân Huế “hót chi” cùng phép nhân hóa đã thể hiện niềm vui ngây ngất của nhà thơ. Tiếng chim không chỉ mang đến không khí rộn ràng cho mùa xuân mà còn làm thức dậy cả tâm hồn con người đang phải đối mặt với những đau đớn giày vò của bệnh tật. Không chỉ vậy, cảm xúc của thi nhân còn thể hiện qua cách miêu tả tiếng chim:


Từng giọt long lanh rơi


Tôi đưa tay tôi hứng.


Giọt long lanh” là một hình ảnh đẹp gợi nhiều liên tưởng. Có người cho rằng đó là giọt mưa xuân, giọt sương mùa xuân nhưng nếu gắn với những câu thơ trên thì “giọt long lanh”chính là tiếng chim.Tiếng chim vốn trừu tượng vô hình được cảm nhận bằng thính giác nay chuyển thành giọt có hình khối, có màu sắc “long lanh” được cảm nhận bằng thị giác. Thông qua phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, ta hình dung tiếng chim tiếng chim như 1 chuỗi ngọc long lanh đang ngưng đọng và rơi xuống trong ánh sáng rạng rỡ của trời xuân và tấm lòng rộng mở của thi nhân. Đặc biệt cảm xúc của thi nhân còn thể hiện qua thái độ nâng niu trân trọng trước vẻ đẹp của thiên nhiên. ‘Hứng” là đón lấy, đỡ lấy với thái độ trân trọng và niềm xúc động sâu xa. Nhà thơ không chỉ đón nhận mùa xuân bằng tai nghe, mắt nhìn mà còn bằng cả tấm lòng tha thiết. Phải là người yêu mến, gắn bó với thiên nhiên, nhà thơ mới có được những rung động tinh tế như thế. Bằng những hình ảnh đẹp và hình ảnh trữ tình thiết tha, khổ thơ đầu đã vẽ lên 1 bức tranh đẹp, tràn đầy sức sống. Qua đó bộc lộ cảm xúc say sưa ngây ngất của thi nhân.


Nếu làm nên mùa xuân thien nhiên là hình ảnh dòng sông xanh, bông hoa tím và tiếng chim chiền chiện thì làm nên mùa xuân của đất nước là “người cầm súng”, “người ra đồng”:


Mùa xuân người cầm súng


Lộc giắt đầy quanh lưng


Mùa xuân người ra đồng


Lộc trải dài nương mạ



Lúc này nước ta đã thống nhất nhưng vẫn phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, trong đó các thế lực thù địch luôn tìm cách phá hoại nền độc lập. Vì thế, nhà thơ nhắc đến 2 lực lượng quan trọng của đất nước là “người cầm súng”- những chiến sĩ bảo vệ Tổ quốc và “người ra đồng”- người lao động để xây dựng quê hương. Điệp ngữ “mùa xuân” tạo nên âm điệu nhịp nhàng cho lời thơ và nhấn mạnh sắc xuân đang tràn ngập đất trời và rạo rực lòng người. Nét đặc sắc của đoạn thơ là sáng tạo hình ảnh “lộc”. Từ “lộc” vừa mang nghĩa thực là chồi non của cây cối phát triển khi xuân sang. Đối với người lính “Lộc giắt đầy trên lưng” là hình ảnh những cánh lá ngụy trang để che mắt quân thù. Đối với người nông dân “Lộc trải dài nương mạ” là những mầm cây non trải dài trên đồng ruộng bát ngát. Đồng thời “lộc” còn là hình ảnh tượng trưng cho sự may mắn, an lành, tốt đẹp, cho sự phát triển không ngừng của đất nước. “Lộc” chính là thành quả của hôm nay, là niềm tin, hi vọng của ngày mai. Câu thơ có cấu trúc song hành tạo nhịp điệu ngân nga cho lời thơ và khẳng định con người có mặt ở đâu, mùa xuân theo tới đó. Người cầm súng mang cả sắc xuân vào trận đánh, còn người ra đồng gieo mùa xuân trên từng nương mạ. Họ chính là mùa xuân của đất nước. Họ dùng mồ hôi, xương máu của mình góp phần tô điểm mùa xuân và giữ lấy mùa xuân mãi mãi.


Cả dân tộc ta bước vào xuân với khí thế khẩn trương náo nức:


Tất cả như hối hả


Tất cả như xôn xao.



Điệp ngữ so sánh “Tất cả như” cho thấy không phải 1 cá nhân mà là tất cả mọi người, mọi tầng lớp đang phát huy hết tài năng, sức lực, trí tuệ để xây dựng đất nước. Ngoài ra, điệp ngữ kết hợp với từ láy “hối hả”, “xôn xao”gợi tả không khí lao động tập thể sôi nổi, hăng say. Từ “xôn xao” không chỉ là âm thanh thực mà còn gợi lên âm vang của cuộc sống mới. Câu thơ vừa tái hiện không khí vào xuân của đất nước vừa bộc lộ tình cảm yêu mến thiết tha của tác giả với cuộc đời.


Từ cảm xúc về mùa xuân của đất nước, nhà thơ suy ngẫm:


Đất nước bốn nghìn năm





Vất vả và gian lao


Đất nước như vì sao


Cứ đi lên phía trước



Bằng lời thơ giản dị, nhà thơ khái quát lịch sử nước ta với hơn 4 ngàn năm dựng nước, giữ nước. Trong quá trình đó, nước ta có lúc hưng thịnh, có lúc suy vong với bao gian lao thử thách “Vất vả và gian lao”. Phép nhân hóa nhấn mạnh một dân tộc nhỏ bé đã bao lần phải đương đầu với các thế lực ngoại xâm tàn bạo. Trải qua bao thăng trầm lửa đạn, Tổ quốc ta được tạo dựng bằng mồ hôi, xương máu của các thế hệ cha ông. Vì vậy, hành trình đi đến tương lai của nước ta là 1 tất yếu:


Đất nước như vì sao


Cứ đi lên phía trước



Câu thơ sử dụng phép so sánh đẹp và giàu ý nghĩa. “Đất nước” được so sánh với “vì sao” để làm nổi bật sức mạnh vượt qua đêm tối, qua gian khó để tỏa sáng khiêm nhường lặng lẽ. Hình ảnh so sánh vừa nói được sự tỏa sáng vừa khẳng địn sự tồn tại vĩnh hằng của đất nước. Cũng như qui luật vận hành của vũ trụ, hành trình phát triển của dân tộc ta sẽ không 1 thế lực nào ngăn cản được. Cụm từ “cứ đi lên” thể hiện ý chí, lòng quyết tâm và niềm tin sắt đá của dân tộc ta để xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh. Như vậy, trước mùa xuân thiên nhiên, nhà thơ không giấu nổi niềm say sưa ngây ngất còn trước mùa xuân của đất nước ông không giấu nổi niềm tin tưởng, tự hào. Đạt bài thơ vào thời điểm ra đời- khôi phục kinh tế, khắc phục hậu quả của chiến tranh, ta càng thấy niềm lạc quan của tác giả


Như vậy, 3 khổ thơ đầu bài “mùa xuân nho nhỏ” đã làm nổi bật bức tranh thiên nhiên mùa xuân xứ Huế thơ mộng tươi đẹp và tràn đầy sức sống đồng thời khắc họa

hình ảnh đất nước với bề dày lịch sử đáng tự hào không ngừng phát triển. Qua đó nhà thơ bộc niềm say đắm với thiên nhiên, tình yêu tha thiết với cuộc đời và niềm tin mãnh liệt vào tương lai đất nước. Đoạn thơ thành công nhờ ngôn ngữ giản dị, trong sáng, hình ảnh thơ đẹp, gợi cảm và giọng thơ tha thiết, sâu lắng.


Giai điệu bài hát đã hết nhưng dư âm vẫn vang vọng trong lòng mỗi người. Hình ảnh mùa xuân thiên nhiên xứ Huế thơ mộng cùng niềm say đắm với thiên nhiên, tình yêu tha thiết với cuộc đời và niềm tin mãnh liệt vào tương lai đất nước của nhà thơ vẫn khiến lòng người xao xuyến. Cảm động trước tấm lòng nhà thơ, mỗi chúng ta hãy trân trọng vẻ đẹp của hiên nhiên và chung tay xay dựng quê hương đất nước mạnh giàu.




Giáo viên: Nguyễn Xuân Khang


Email: [email protected]


Đề bài: Cảm nhận về hình ảnh người mẹ trong bài thơ Con cò của Chế Lan Viên.


Bài làm


Ta đi trọn kiếp con người


Cũng không đi hết những lời mẹ ru.


( Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Nguyễn Duy )



Trong vũ trụ nhân sinh của thế gian này, dù chúng ta là ai đi chăng nữa, vĩ nhân hay người cần lao thì sự hiện hữu của con người đều do mẹ sinh ra. Mẹ là sự sống, là tình yêu, là bùi, là ngọt, là hương thơm, là vốn liếng yêu thương...cho suốt cuộc đời

chúng con. Và chàng lãng tử trong thế giới Điêu tàn- Chế Lan Viên cũng không nằm ngoài quy luật của vũ trụ nhân sinh, vì thế cánh diều nghệ thuật trong thơ ông hấp dẫn người đọc không chỉ ở sự lấp lánh của từ ngữ mà còn ở chiều sâu suy ngẫm đầy nhân bản. Con cò là một bài thơ như thế. Từ hình tượng con cò, nhà thơ đã đi đến khái quát sâu sắc về tình yêu thương của mẹ trong cuộc đời của mỗi con người. Hình tượng mẹ được nhà thơ miêu tả gắn liền với những chặng đường đời của mỗi con người khi hiện hữu trên cõi đời này.


Tình mẫu tử thiêng liêng bao đời nay vẫn là mạch nguồn cảm hứng vô tận của các văn nhân, thi sĩ trên thế giới. Tuy vậy, trong mỗi tác phẩm, các tác giả lại khai thác tình mẫu tử ở những khía cạnh khác nhau. Trong bài thơ Con cò của Chế Lan Viên, hình ảnh con cò mang ý nghĩa biểu tượng về lòng mẹ, sự dìu dắt, nâng đỡ dịu dàng và bền bỉ của người mẹ đối với các con trong suốt cuộc đời.


Mở đầu bài thơ là lời du quen thuộc của mẹ bên nôi, đưa con vào giấc ngủ êm đềm, chập chờn nhưng cánh cò, cánh vạc trong ca dao xưa:


Con cò bay la


Con cò bay lả


Con cò cổng phủ,


Con cò Đồng Đăng...



Rồi hình ảnh cò mẹ lặng lội kiếm ăn ban đêm để nuôi đàn con bé bỏng, chẳng may đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao...Ở đoạn đời đầu tiên là khi con cò ẵm ngửa, tình mẹ gửi trong từng câu hát ru rất quen thuộc. Trong câu hát có hình ảnh quê hương, có hình ảnh những cuộc đời lam lũ, tần tảo một nắng hai sương nuôi con khôn lớn.




Thấm đẫm trong lời hát ru là những cảm xúc yêu thương dâng trào trong trái tim


người mẹ:


















một

mình,

phải

kiếm

lấy

ăn,






Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ.














...Ngủ

yên!

Ngủ

yên!

ơi,

chớ

sợ!






Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng!








Những cảm xúc yêu thương ấy làm nên chiều sâu của lời ru, mang đến cho con giấc ngủ bình yên. Vì thế, cho dù không hiểu, dù là cảm nhận vô thức nhưng trái tim bé nhỏ của con đã hiểu được thế nào là tình mẹ: “ Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân”.



Có lẽ, tất cả các bà mẹ trên thế gian này đều coi con mình là thứ quý giá nhất- là vũ trụ riêng của mẹ. Người mẹ trong bài thơ Con cò này thuy không hiện diện nhưng tình mẹ, lòng mẹ bao la, chan chứa trong từng câu, từng chữ. Mẹ nuôi con lớn bằng dòng sữa ngọt lành, dòng sữa mẹ là tinh chất thiêng liêng, là chất liệu tình thương dạt dào nuôi dưỡng đời con, cả cuộc đời này con không trả hết công ơn của mẹ.



Mẹ cũng là người đầu tiên tạo dựng đời sống tinh thần cho con bằng những lời ru đậm đà tình nghĩa, ẩn chứa lời dạy về đạo lí làm người. Dẫu biết rằng ở tuổi nằm nôi, con chưa hiểu được ý nghĩa sâu xa của những lời ru ấy những bởi âm hưởng trầm bổng, tha thiết của lời ru qua ngày tháng sẽ từ từ thấm vào máu thịt, vào tâm hồn của đứa côn yêu. Chính vì vậy mà muôn đời những đứa con vẫn muốn:



Kiếp sau xin lại làm người



Để nghe non nước vọng lời mẹ ru.



( Lời ru của mẹ, Hồ Dzếnh)




Chế Lan Viên đề cập đến một quy luật tâm lí chung là người mẹ nào cũng mong cho con mình khôn lớn, trưởng thành, làm nên sự nghiệp. Nhưng dù thế nào đi nữa thì mẹ mong con đừng quên cội nguồn vốn là những điều dung dị, đẹp đẽ, làm nên đời sống phong phú tinh thần của mỗi con người:


Lớn

lên,


lớn

lên,


lớn

lên...









Con




làm



gì?









Con



làm


thi










Cánh

trắng

lại

bay

hoài

không

nghỉ









Trước




hiên



nhà



Và trong hơi mát câu văn..



Con cò trong ca dao xưa, con cò trong lời ru của mẹ hôm nay và mẹ đã hòa nhập thành một. Cánh cò lòng mẹ ủ ấp cho con, che chở cho con trong giấc ngủ say nồng. Cánh cò lòng mẹ bay theo gót chân con tung tăng đến trường.



Cánh cò và tình mẹ đã đi sâu vào tâm hồn con như thế. Và sẽ mãi theo con đến suốt cuộc đời. Sau này, tất nhiên con sex có cuộc sống riêng, tách rời khỏi mẹ, nhưng lòng mẹ lúc nào cũng ở bên con:





gần


con,












xa


con,









Lên


rừng



xuống


bể,










sẽ



tìm


con,










mãi



yêu


con,









Con

lớn

vẫn

con

của

mẹ,



Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con.




Qủa là những lời tâm huyết mà bất cứ người mẹ nào cũng muốn nói với con mình. Đọc những câu thơ trên, không ai là không xúc động rước tình mẹ mênh mông như biển rộng, bất tận như nước suối nguồn, không bao giờ vơi cạn.



Dưới hình thức thơ tự do, nhà thơ đã dựng lên một bầu trời yêu thương bao la mà đặc điểm của nó là không gian và thời gian không giới hạn. “ Lên rừng- xuống biển” hai chiều không gian gợi những khó khăn của cuộc đời; gần- xa- khoảng cách địa lí cũng là một trở ngại ngăn cản tình cảm những chẳng thế nào là những cản trở đối với tình thương mà mẹ dành cho con. Tình thương của mẹ luôn, vẫn, sẽ và mãi bên con cho dù có thể có một ngày nào đó mẹ không còn có mặt trên đời. Tấm lòng người mẹ muôn đời vẫn vậy, bởi: “ Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ”.



Tình mẹ vượt ra khỏi khoảng cách và giới hạn, không chịu khuôn mình trong không gian và thời gian. Từ sự thấu hiểu tấm lòng người mẹ, nhà thơ đã khái quát, đúc kết một quy luật tình cảm có ý nghĩa như một phương châm, một triết lí bền vững, rộng lớn và vô cùng sâu sắc. Đó cũng chính là một ưu thế của Chế Lan Viên khi viết về một suy tường đầy triết lí.



Phần cuối bài thơ trở lại với âm hưởng lời ru và đúc kết ý nghĩa phong phú của hình thức con cò trong những lời ru ấy:


À



ơi!





Một

con

thôi,





Con

mẹ

hát





Cũng

cuộc

đời





Vỗ cánh qua nôi.







Lời ru ấy được lặp đi, lặp lại qua từng đoạn thơ đã tạo nên một nét nhạc vừa dân gian vừa hiện đại xuyên suốt bài thơ. Vẻ đẹp của hình ảnh con cò- một hình tượng thống nhất tuyệt vời giữa tình cảm, hành động và ước mơ qua lời ru của mẹ ngày càng được khắc thêm đậm nét. Sức biểu hiện của con cò cũng thật phong phú. Đó là quy luật nhà thơ đã trình bày và khái quát trong suốt bài thơ.



Mẹ muôn đời vẫn là mẹ, mẹ vất vả chẳng sợ gian khổ, tần tảo một nắng hai sương, mẹ đã đánh đổi cả một đời son sắc tươi vui chỉ vì tương lai của cúng con.



Có thể nói, con cò là bài thơ đặc sắc. Thông qua cánh cò tượng trưng dập dìu trong lời thơ, câu hát, Chế Lan Viên muốn nói lên tấm lòng yêu thương và những mong ước của người mẹ với đứa con. Bài thơ khép lai trong những câu thơ đúc kết về sự gắn bó mấu thịt giữa cuộc đời mỗi con người và tình yêu thương của mẹ. Cuộc đời sẽ chẳng thể nào thiếu đi phần tình cảm thiêng liêng nhất trên đời đó, bởi đó còn là tình yêu quê hương, cội nguồn, là bến bờ chở che, nâng đỡ mỗi con người.



Bằng con đường của sự suy tưởng, Chế Lan Viên đã dựng lên hình tượng người mẹ Việt Nam bằng tình yêu thương con vượt ra ngoài mọi bờ cõi, giới hạn, gắn với từng chặng đời, theo từng bước con đi. Mỗi con người Việt Nam trưởng thành hôm nay đều bắt đầu từ đó. Trong vă học và trong tâm thức mỗi người, mẹ luôn và bao giờ cũng là hình ảnh đẹp nhất rực rỡ nhất. Với người này là sự nâng niu chăm sóc: “ Cơm ăn tay mẹ nấu, nước con uống tay mẹ đun”. Với người khác là những vấp ngã cuộc đời được bàn tay mẹ che chở bao bọc: “ Ba mẹ là lá chắn, che chở suốt đời con”.. Tất cả để khẳng định một điều, con người lớn lên không thể thiếu được tình yêu thương của người mẹ.



Bài thơ ra đời cách chúng ta đã hơn nửa thế kỉ nhưng những triết lí về cuộc đời và tình yêu thương của von người vẫn chưa và không bao giờ đã cũ. Bởi vì, chẳng có điều gì trên thế gian này có thể vĩnh cửu bằng tình mẹ yêu con. Người mẹ chính là tượng đài bất tử về tình cảm cao quý của con người.



-----------------------------Hết-------------------------------






DỰ ÁN 9: NGHỊ LUẬN VĂN HỌC 9


Giáo viên: Phạm Thị Bình


Email: [email protected]


Đề bài: Phân tích bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.



Trong những năm tháng kháng chiến oai hùng của dân tộc ta, hình tượng người lính đã trở thành nơi thăng hoa cho biết bao thi phẩm ra đời. Đó là hình ảnh “Mấy chàng lính trẻ măng tơ, Nghêu ngao gõ bát hát chờ cơm sôi” trong thơ Tố Hữu, đó là hình ảnh anh giải phóng quân “Từ dáng đứng của anh trên đường băng Tân Sơn Nhất, Tổ quốc


bay lên bát ngát mùa xuân” trong thơ Lê Anh Xuân… mà hình ảnh đó đã trở thành những tượng đài thơ bất tử trong lòng dân tộc. Khiêm nhường, giản dị trong thế giới thơ ca về người lính song có thể nói, “Đồng chí” của Chính Hữu lại có những âm vang riêng không hề trộn lẫn.


Khi xưa, Lê Quý Đôn từng nói: “Thơ phát khởi tự trong lòng người ta”, Ngô Thì Nhậm thì khẳng định rằng: “Hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần”. Tiếp nối quan điểm đó, Hoài Thanh khẳng định: “...Từ bao giờ đến bây giờ, từ Homero đến kinh thi, đến ca dao Việt Nam, thơ vẫn là một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó đã ra đời giữa những vui buồn của loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế”. Quả thực, thơ xuất phát từ cuộc sống, từ tình yêu và nở hoa nơi từ ngữ. “Đồng chí” của Chính Hữu không nằm ngoài quy luật đó. Bài thơ được khơi nguồn cảm xúc về những người đồng chí đồng đội của nhà thơ Chính Hữu. Tác giả của bài thơ từng tâm sự về sự ra đời của bài thơ này: “Tôi cũng phải có trách nhiệm chăm sóc anh em thương binh và chôn cất một số tử sĩ. Sau trận đó, tôi ốm, phải nằm lại điều trị; đơn vị cử một đồng chí ở lại săn sóc tôi. Trong khi ốm, nằm ở nhà sàn heo hút, tôi làm bài thơ Đồng chí… Bài “Đồng chí” là lời tâm sự viết ra để tặng đồng đội, tặng người bạn





nông dân của mình.” Phải chăng chất lính đã thấm dần vào chất thi ca, tạo nên dư vị tuyệt vời cho tình đồng chí. Nói đến thơ trước hết là nói đến cảm xúc và sự chân thành là vì thế. Không có cảm xúc, thơ sẽ không thể có sức lay động hồn người, không có sự chân thành chút hồn của thơ cũng chìm vào quên lãng. Một chút chân thành, một chút lãng mạn, một chút âm vang mà Chính Hữu đã gieo vào lòng người những cảm xúc khó quên. Bài thơ “Đồng chí” với nhịp điệu trầm lắng mà như ấm áp tươi vui; với ngôn ngữ bình dị dường như đã trở thành những vần thơ của niềm tin yêu, sự hi vọng, lòng cảm thông sâu sắc của một nhà thơ cách mạng. Phải chăng, chất lính đã thấm dần vào chất thơ, sự mộc mạc đã hoà dần vào cái thi vị của thơ ca tạo nên những vần thơ nhẹ nhàng và đầy xúc cảm ?


Mở đầu bài thơ, nhà thơ viết:


Quê

hương

anh

nước

mặn,



đồng

chua










Làng

tôi

nghèo

đất

cày

lên


sỏi

đá









Anh

với

tôi

đôi

người


xa

lạ









Tự

phương

trời

chẳng

hẹn


quen

nhau.










Súng

bên

súng,

đầu

sát



bên

đầu









Đêm

rét

chung

chăn

thành

đôi

tri

kỷ


Đồng chí!”


Tình đồng chí bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân:


Quê hương anh nước mặn, đồng chua


Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.



Ấn tượng đầu tiên là ở sự sóng đôi của các câu thơ: “quê hương anh” – ‘làng tôi”, “nước mặn, đồng chua” – “đất cày lên sỏi đá”, gợi lên sự tương đồng về quê hương của những người lính ra trận. “Nước mặn đồng chua” là vùng ven biển rất khó làm ăn. “Đất cày

lên sỏi đá” là vùng núi trung du cỗi cằn, khó khai thác. Hai chi tiết hai mảnh đời nhưng cùng cảnh khốn khổ. Anh và tôi tuy khác nhau nhưng cùng xuất thân từ nông dân, từ những mảnh đất nghèo khó ở mọi phương trời tập hợp lại trong một đội ngũ cách mạng. Chính sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân đã trở thành cội nguồn làm nảy nở tình đồng chí. Những người nông dân hiền lành ấy sinh ra để làm ăn lương thiện. Khi có giặc, những người trai làng ấy đã ra lính và trở thành đồng đội của nhau:


Anh với tôi đôi người xa lạ


Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”.



Những cuộc chiến đấu đã biến cái lạ thành quen, biến những người ở chân trời góc bể thành những người trong một đội ngũ. Những đồng cảnh, đồng ngũ mới đủ biến lạ thành quen, chưa thực sự là đồng chí.


Súng bên súng, đầu sát bên đầu


Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”.



Hình ảnh “súng bên súng” vừa mang nghĩa tả thực vừa mang nghĩa tượng trưng. Xét về nghĩa tả thực, hình ảnh này chỉ những người lính cùng đứng sát bên nhau trong một đội hình nhưng còn gợi cả lí tưởng, chí hướng cùng chiến đấu cho một sự nghiệp chung. Sống trong quân ngũ tình cảm của các anh ngày càng trở nên thắm thiết, gắn bó. Họ không chỉ gặp gỡ ở lí tưởng cao đẹp bảo vệ Tổ quốc mà còn cùng nhau trải qua khó khăn, gian khổ của đời lính. Hình ảnh “đêm rét chung chăn” gợi biết bao thân thiết, ấm áp. Tình đồng chí không chỉ đến từ những điều lớn lao cao cả mà còn đến từ những điều thật giản dị, đời thường. Tình cảm của họ thật bền chặt, gắn bó bởi trước khi là đồng chí, họ đã là tri kỉ của nhau. Để biểu hiện tình đồng chí, đoạn thơ có một hình thức ngôn từ rất đặc biệt, đó là tính cặp đôi. Hình thức này khiến những người lính thành “tuy hai mà một”, từ rời rạc, riêng lẻ mà nhập thành chung, khăng khít, keo sơn, không thể tách rời. Trước hết là tính cặp đôi của đại từ. Mới đầu “anh” và “tôi” xếp hàng dọc qua hai câu thơ, sau đó “anh” và “tôi” gần gũi hơn, xếp thành hàng ngang trong cùng một câu thơ, xích lại gần nhau để hoàn thành một “đôi người xa lạ” rồi mới trở thành “đôi tri kỉ”. Không chỉ vậy, tính cặp đôi còn được thể hiện qua hàng loạt từ nghĩ, hình ảnh sóng đôi “súng – súng, đầu – đầu, bên – bên, sát – chung” để diễn tả sự mật thiết, thắm thiết của tình bằng hữu, tình tri kỉ, tình đồng đội. Đôi bạn chí cốt hiểu nhau sâu sắc để cuối cùng trở thành thành đỉnh điểm: “đồng chí”. Câu thơ thứ bảy đứng riêng một hàng chỉ có hai chữ. Nhịp thơ ngắn, đột ngột, dồn nén, chất chứa. Đây vừa là một nút nhấn đầy ấn tượng, vừa bật lên như một tiếng còi thiết tha xúc động, như một phát hiện kết luận, chiêm nghiệm sâu sắc, một bản lề khép mở hai đoạn thơ. Tóm lại, cơ sở của tình đồng chí được Chính Hữu lí giải tạo ra sự ngày càng xích lại gần nhau của hai con người, hai tâm hồn. Từ đồng cảnh, đồng ngũ, đồng cảm đến chí gắn với với tri kỉ, đồng chí không còn là một khái niệm khô khan mà chứa chan bao cảm xúc.



Tình đồng chí giúp người lính thông cảm sâu xa về tình cảnh và tỉnh cảm sâu kín của nhau. “Ruộng nương ảnh gửi bạn thân cày”. Chữ “tôi” biến mất chỉ còn “anh. Nói về anh mà cứ như nói về mình thì quả là tri âm tru kỉ. Những hình ảnh rất thật lại xuất hiện: “ruộng nương”, “gian nhà không”, “gió lung lay”. Đó là những tài sản nghèo nàn mà thân thiết, quý giá của những người lính đang vẫy gọi bàn tay của họ chăm sóc, giữ gìn. Vậy mà chữ “mặc kệ” thật quyết liệt, thể hiện một thái độ rất đẹp: hi sinh tình riêng vì nghĩa chung, đặt vận mệnh đất nước lên trên vận mệnh gia đình. Nó gợi nhớ tới những tráng sĩ xưa:



Phong tiêu tiêu hề, Dịch thuỷ hàn,


Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục hoàn.”



Nó gợi nhớ tới câu thơ chan chứa lí tưởng của Chế Lan Viên:


Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt

Như mẹ cha ta như vợ như chồng


Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết


Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông”



Nhưng kiên quyết ra đi không có nghĩa là chối bỏ bởi người lính luôn nhớ về nỗi niềm nhau và niềm quê “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Câu thơ sử dụng biện pháp nhân hóa sinh động và hình ảnh hoán dụ kín đáo. Chữ “nhớ” đan chéo tình cảm. Quê hương nhớ người lính và người lính phải nhớ quê hương da diết đến nhường nào mới hiểu lòng quê hương đang hướng về mình đến vậy. Phải chăng vì thế mà người đọc bao lâu nay vẫn nhớ tới những câu thơ lắng sâu của Nguyễn Đình Thi khi đọc những câu thơ này trong “Đồng chí”:


Người ra đi đầu không ngoảnh lại


Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”



Những câu thơ song song hai cảm xúc, vừa cảm thương trước nỗi nhớ, sự hi sinh thầm lặng của người lính, vừa cảm phục lí tưởng sống cao đẹp của họ: sẵn sàng hi sinh hạnh phúc riêng tư vì Tổ quốc. Đó là sợi dây tương thân tương ai, sự thấu hiếu, sẻ chia thật thiết tha, cảm động. Như vậy đồng chí chính là sự thông cảm sâu xa, thấu hiểu tâm tư, nỗi lòng sâu kín của nhau. Tình đồng chí hiện lên thật cao cả biết bao.Tình đồng chí còn là sự chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời vệ quốc quân. Ngôn ngữ cặp đôi lại một lần nữa được phát huy tác dụng trong việc diễn tả tình đồng chí. Cặp “anh


tôi” tiếp tục song song với nhau trong bệnh tật.



Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”.



Hai câu thơ viết về người lính chống Pháp. Chính Hữu không né tránh hiện thực khốc liệt. Những người lính phải trải qua những cơn sốt rét rừng ghê gớm: ớn lạnh, sốt run người. Thơ ca kháng chiến cũng có những câu thơ cảm động gợi tả hình ảnh người lính gắn với những cơn sốt rét rừng:


Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc


Quân xanh màu lá dữ oai hùm”



Nhưng ấn tượng không chỉ cảm động ở hiện thực mà còn khiến ta xúc động trước tình đồng đội. Tình đồng chí đã tỏa sáng trong gian khó để người lính luôn chia sẻ cùng nhau những khoảnh khắc của bệnh tật. “Anh với tôi” còn cùng nhau trải qua những thiếu thốn đến rách rưới. Những người lính nhìn thấy và thương nhau từ những chi tiết nhỏ nhất của đời sống. Hình ảnh thơ, ý thơ cứ song song, các cặp câu thơ cứ song song như những vế đối góp phần diễn tả sâu sắc sự sẻ chia nhiều nỗi cơ hàn, sự chung lòng, đồng cam cộng khổ. Tình đồng chí còn giúp họ có sức mạnh vượt qua buốt giá, ấm áp giữa buốt giá. Câu thơ “miệng cười buốt giá chân không giày” khiến người đọc vừa xót thương vừa cảm động. Xót thương bởi đó là nụ cười trong buốt giá, gian lao nhưng cảm động bởi đó là nụ cười đã nở trên buốt giá, nở trên gian lao. Đó là nụ cười của ý chí và tinh thần, nụ cười chia sẻ cảm thông. Hình ảnh “tay nắm lấy bàn tay” là một động thái trữ tình đầy sức gợi. Chính những bàn tay ấy đã nói lên tất cả vẻ đẹp của tình đồng chí. Đó là sự chia sẻ giản dị, tự nhiên, ấm áp và nghĩa tình. Những bàn tay truyền cho nhau hơi ấm, tiếp cho nhau nghị lực để trụ vững trước khó khăn, để đồng cam cộng khổ chiến đấu trước kẻ thù. Trong thơ ca Việt Nam, ta cũng bắt gặp những cái bắt tay sâu nặng nghĩa tình. Đó là những cái bắt tay siết chặt tinh thần đồng đội “bắt tay qua cửa kính vở rồi”, siết chặt tình quân dân cả nước “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”.









Ba câu thơ cuối là biểu hiện cụ thể cao đẹp nhất của tình đồng chí khi họ cùng sát cánh bên nhau trên một chiến hào, đây là thử thách lớn nhất để làm sáng lên vẻ đẹp của tình đồng chí.


Đêm nay rừng hoang sương muối


Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới


Đầu súng trăng treo.”



Nhịp thơ đều đều 2/2/2 - 2/2/3 cô đọng tất cả nét đẹp của những người lính. Đó cũng chính là vẻ đẹp ngời sáng trong gian khổ của người lính. Vượt lên trên tất cả, tình đồng đội, đồng chí như được sưởi ấm bằng những trái tim người lính đầy nhiệt huyết, vẫn đứng canh giữ cho bầu trời Việt Nam dù đêm đầy khuya, sương đã xuống, màn đêm cũng chìm vào quên lãng.Tình đồng chí được đặt trên nền thiên nhiên hùng vĩ, khắc nghiệt: đêm, rừng hoang, sương muối. Những người chiến sĩ sát cánh bên nhau vững chãi, tự tin, tràn đầy khí thế lạc quan trong tư thế chiến đấu với kẻ thù. Hình ảnh mang đến cho người đọc sức mạnh của tình đồng chí như làm mờ đi cái gian khó và khốc liệt của hiện thực, tạo nên tư thế thành đồng vách sắt trước quân thù. Tư thế người lính đứng cạnh bên nhau thật vững vàng, tự tin trong một chiến hào. Tình đồng chí còn khiến người lính bình thản trước thềm cuộc chiến, khiến họ thấy cuộc đời vẫn đẹp đẽ, thơ mộng ngay giữa hiểm nguy, gian lao. Tình đồng chí thực sự kết tinh và được đẩy lên cao trài trong một chi tiết bất ngờ, chứa đựng tư tưởng đặc sắc: “đầu súng trăng treo”. Nhà thơ Chính Hữu từng tâm sự: “Lúc đầu tôi viết là “đầu súng mảnh trăng treo” sau đó bớt đi một chữ. “Đầu súng trăng treo”, ngoài hình ảnh bốn chữ này còn có nhịp điệu như nhịp lắc của một cái gì lơ lửng chông chênh trong sự bát ngát. Nó nói lên một cái gì lơ lửng ở rất xa chứ không phải là buộc chặt, suốt đêm vầng trăng ở bầu trời cao xuống thấp dần và có lúc như treo lơ lửng trên đầu mũi súng.” Người đọc thơ xưa nay

vẫn là người đống sáng tạo với chín tác giả. Có thể nói “ Đầu súng trăng treo” là một

câu thơ đa nghĩa, giàu tính hiện thực, đầy lãng mạn và giàu ý nghĩa biểu tượng. Về nghĩa hiện thực, câu thơ gợi hình ảnh rất thật của mảnh trăng. Những người lính cầm súng chiến đấu trong những đêm trăng giữa rừng, nhìn lên như như treo lơ lửng trên đầu ngọn súng. Còn xét về ý nghĩa biểu tượng, súng và trăng là sự kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn: gần – xa, chiến tranh – hòa bình, chiến sĩ – thi sĩ, chất thép – chất thơ. Các mảng tương phản ấy bổ sung cho nhau làm nên vẻ đẹp của hình hình tượng người lính và vẻ đẹp của tình đồng chí. Sự kết hợp hài hòa của những mặt tương phản khiến ta hiểu rằng: người lính không chỉ dũng cảm, kiên cường, mạnh mẽ, rắn rỏi trong chiến đấu mà còn lãng mạn, mộng mơ, yêu đời, nhạy cảm với cái đẹp. Đồng thời ta còn cảm nhận được chính sức mạnh của tình đồng chí đã khiến người lính tự nhiên, bình thản, lãng mạn, mộng mở ngay trước thềm cuộc chiến, ngay trước thềm hiểm nguy.


Với lối viết chân thật, giản dị đạt đến tính hàm súc, khái quát cao mà vẫn không thiếu cái sinh động, Chính Hữu đã tạo nên bài thơ để ca ngợi vẻ đẹp của tình đồng chí, vẻ đẹp của hình tượng người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp cứu nước. Bài thơ cũng có thể coi là một tượng đài thơ bất tử về người lính vệ quốc “Cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”


Bài thơ được viết trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đã hơn 70 năm trôi qua kể từ khi bài thơ ấy ra đời. Và có thể những người lính trong bài thơ năm nào cũng đã trở về cát bụi. Nhưng “Thác là thể phách, còn là tinh anh”, hình tượng của họ sẽ sống mãi trong trái tim Việt Nam cũng như bài “Đồng chí” sẽ mãi lắng đọng trong tâm hồn người đọc.





Giáo viên: Nguyễn Xuân Khang


Email: [email protected]


Đề bài: Cảm nhận về hình ảnh người mẹ trong bài thơ Con cò của Chế Lan Viên.


Bài làm


Ta đi trọn kiếp con người


Cũng không đi hết những lời mẹ ru.


( Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Nguyễn Duy )



Trong vũ trụ nhân sinh của thế gian này, dù chúng ta là ai đi chăng nữa, vĩ nhân hay người cần lao thì sự hiện hữu của con người đều do mẹ sinh ra. Mẹ là sự sống, là tình yêu, là bùi, là ngọt, là hương thơm, là vốn liếng yêu thương...cho suốt cuộc đời chúng con. Và chàng lãng tử trong thế giới Điêu tàn- Chế Lan Viên cũng không nằm ngoài quy luật của vũ trụ nhân sinh, vì thế cánh diều nghệ thuật trong thơ ông hấp dẫn người đọc không chỉ ở sự lấp lánh của từ ngữ mà còn ở chiều sâu suy ngẫm đầy nhân bản. Con cò là một bài thơ như thế. Từ hình tượng con cò, nhà thơ đã đi đến khái quát sâu sắc về tình yêu thương của mẹ trong cuộc đời của mỗi con người. Hình tượng mẹ được nhà thơ miêu tả gắn liền với những chặng đường đời của mỗi con người khi hiện hữu trên cõi đời này.


Tình mẫu tử thiêng liêng bao đời nay vẫn là mạch nguồn cảm hứng vô tận của các văn nhân, thi sĩ trên thế giới. Tuy vậy, trong mỗi tác phẩm, các tác giả lại khai thác tình mẫu tử ở những khía cạnh khác nhau. Trong bài thơ Con cò của Chế Lan Viên, hình ảnh con cò mang ý nghĩa biểu tượng về lòng mẹ, sự dìu dắt, nâng đỡ dịu dàng và bền bỉ của người mẹ đối với các con trong suốt cuộc đời.


Mở đầu bài thơ là lời du quen thuộc của mẹ bên nôi, đưa con vào giấc ngủ êm đềm, chập chờn nhưng cánh cò, cánh vạc trong ca dao xưa:


Con cò bay la


Con cò bay lả


Con cò cổng phủ,


Con cò Đồng Đăng...



Rồi hình ảnh cò mẹ lặng lội kiếm ăn ban đêm để nuôi đàn con bé bỏng, chẳng may đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao...Ở đoạn đời đầu tiên là khi con cò ẵm ngửa, tình mẹ gửi trong từng câu hát ru rất quen thuộc. Trong câu hát có hình ảnh quê hương, có hình ảnh những cuộc đời lam lũ, tần tảo một nắng hai sương nuôi con khôn lớn.


Thấm đẫm trong lời hát ru là những cảm xúc yêu thương dâng trào trong trái tim người mẹ:


một

mình,

phải

kiếm

lấy

ăn,







Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ.

















...Ngủ

yên!

Ngủ


yên!

ơi,

chớ

sợ!






Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng!









Những cảm xúc yêu thương ấy làm nên chiều sâu của lời ru, mang đến cho con giấc ngủ bình yên. Vì thế, cho dù không hiểu, dù là cảm nhận vô thức nhưng trái tim bé nhỏ của con đã hiểu được thế nào là tình mẹ: “ Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân”.



Có lẽ, tất cả các bà mẹ trên thế gian này đều coi con mình là thứ quý giá nhất- là vũ trụ riêng của mẹ. Người mẹ trong bài thơ Con cò này thuy không hiện diện nhưng tình mẹ, lòng mẹ bao la, chan chứa trong từng câu, từng chữ. Mẹ nuôi con lớn bằng dòng sữa ngọt lành, dòng sữa mẹ là tinh chất thiêng liêng, là chất liệu tình thương dạt dào nuôi dưỡng đời con, cả cuộc đời này con không trả hết công ơn của mẹ.



Mẹ cũng là người đầu tiên tạo dựng đời sống tinh thần cho con bằng những lời ru đậm đà tình nghĩa, ẩn chứa lời dạy về đạo lí làm người. Dẫu biết rằng ở tuổi nằm nôi, con chưa hiểu được ý nghĩa sâu xa của những lời ru ấy những bởi âm hưởng trầm bổng, tha thiết của lời ru qua ngày tháng sẽ từ từ thấm vào máu thịt, vào tâm hồn của đứa côn yêu. Chính vì vậy mà muôn đời những đứa con vẫn muốn:



Kiếp sau xin lại làm người



Để nghe non nước vọng lời mẹ ru.



( Lời ru của mẹ, Hồ Dzếnh)




Chế Lan Viên đề cập đến một quy luật tâm lí chung là người mẹ nào cũng mong cho con mình khôn lớn, trưởng thành, làm nên sự nghiệp. Nhưng dù thế nào đi nữa thì mẹ mong con đừng quên cội nguồn vốn là những điều dung dị, đẹp đẽ, làm nên đời sống phong phú tinh thần của mỗi con người:


Lớn

lên,


lớn

lên,


lớn

lên...









Con




làm



gì?









Con



làm


thi










Cánh

trắng

lại

bay

hoài

không

nghỉ









Trước




hiên



nhà



Và trong hơi mát câu văn..




Con cò trong ca dao xưa, con cò trong lời ru của mẹ hôm nay và mẹ đã hòa nhập thành một. Cánh cò lòng mẹ ủ ấp cho con, che chở cho con trong giấc ngủ say nồng. Cánh cò lòng mẹ bay theo gót chân con tung tăng đến trường.






Cánh cò và tình mẹ đã đi sâu vào tâm hồn con như thế. Và sẽ mãi theo con đến suốt cuộc đời. Sau này, tất nhiên con sẽ có cuộc sống riêng, tách rời khỏi mẹ, nhưng lòng mẹ lúc nào cũng ở bên con:





gần


con,












xa


con,









Lên


rừng



xuống


bể,










sẽ



tìm


con,










mãi



yêu


con,









Con

lớn

vẫn

con

của

mẹ,



Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con.




Qủa là những lời tâm huyết mà bất cứ người mẹ nào cũng muốn nói với con mình. Đọc những câu thơ trên, không ai là không xúc động rước tình mẹ mênh mông như biển rộng, bất tận như nước suối nguồn, không bao giờ vơi cạn.



Dưới hình thức thơ tự do, nhà thơ đã dựng lên một bầu trời yêu thương bao la mà đặc điểm của nó là không gian và thời gian không giới hạn. “ Lên rừng- xuống biển” hai chiều không gian gợi những khó khăn của cuộc đời; gần- xa- khoảng cách địa lí cũng là một trở ngại ngăn cản tình cảm những chẳng thế nào là những cản trở đối với tình thương mà mẹ dành cho con. Tình thương của mẹ luôn, vẫn, sẽ và mãi bên con cho dù có thể có một ngày nào đó mẹ không còn có mặt trên đời. Tấm lòng người mẹ muôn đời vẫn vậy, bởi: “ Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ”.



Tình mẹ vượt ra khỏi khoảng cách và giới hạn, không chịu khuôn mình trong không gian và thời gian. Từ sự thấu hiểu tấm lòng người mẹ, nhà thơ đã khái quát, đúc kết một quy luật tình cảm có ý nghĩa như một phương châm, một triết lí bền vững, rộng lớn và vô cùng sâu sắc. Đó cũng chính là một ưu thế của Chế Lan Viên khi viết về một suy tường đầy triết lí.



Phần cuối bài thơ trở lại với âm hưởng lời ru và đúc kết ý nghĩa phong phú của hình thức con cò trong những lời ru ấy:


À



ơi!





Một

con

thôi,





Con

mẹ

hát





Cũng

cuộc

đời





Vỗ cánh qua nôi.






Lời ru ấy được lặp đi, lặp lại qua từng đoạn thơ đã tạo nên một nét nhạc vừa dân gian vừa hiện đại xuyên suốt bài thơ. Vẻ đẹp của hình ảnh con cò- một hình tượng thống nhất tuyệt vời giữa tình cảm, hành động và ước mơ qua lời ru của mẹ ngày càng được khắc thêm đậm nét. Sức biểu hiện của con cò cũng thật phong phú. Đó là quy luật nhà thơ đã trình bày và khái quát trong suốt bài thơ.



Mẹ muôn đời vẫn là mẹ, mẹ vất vả chẳng sợ gian khổ, tần tảo một nắng hai sương, mẹ đã đánh đổi cả một đời son sắc tươi vui chỉ vì tương lai của cúng con.



Có thể nói, con cò là bài thơ đặc sắc. Thông qua cánh cò tượng trưng dập dìu trong lời thơ, câu hát, Chế Lan Viên muốn nói lên tấm lòng yêu thương và những mong ước của người mẹ với đứa con. Bài thơ khép lai trong những câu thơ đúc kết về sự gắn bó mấu thịt giữa cuộc đời mỗi con người và tình yêu thương của mẹ. Cuộc đời sẽ chẳng thể nào thiếu đi phần tình cảm thiêng liêng nhất trên đời đó, bởi đó còn là tình yêu quê hương, cội nguồn, là bến bờ chở che, nâng đỡ mỗi con người.



Bằng con đường của sự suy tưởng, Chế Lan Viên đã dựng lên hình tượng người mẹ Việt Nam bằng tình yêu thương con vượt ra ngoài mọi bờ cõi, giới hạn, gắn với từng

chặng đời, theo từng bước con đi. Mỗi con người Việt Nam trưởng thành hôm nay đều bắt đầu từ đó. Trong vă học và trong tâm thức mỗi người, mẹ luôn và bao giờ cũng là hình ảnh đẹp nhất rực rỡ nhất. Với người này là sự nâng niu chăm sóc: “ Cơm ăn tay mẹ nấu, nước con uống tay mẹ đun”. Với người khác là những vấp ngã cuộc đời được bàn tay mẹ che chở bao bọc: “ Ba mẹ là lá chắn, che chở suốt đời con”. Tất cả để khẳng định một điều, con người lớn lên không thể thiếu được tình yêu thương của người mẹ.



Bài thơ ra đời cách chúng ta đã hơn nửa thế kỉ nhưng những triết lí về cuộc đời và tình yêu thương của von người vẫn chưa và không bao giờ đã cũ. Bởi vì, chẳng có điều gì trên thế gian này có thể vĩnh cửu bằng tình mẹ yêu con. Người mẹ chính là tượng đài bất tử về tình cảm cao quý của con người.



-----------------------------Hết-------------------------------


Giáo viên: Đậu Thị Thuý Hà


Email: [email protected]


Đề bài (Đề thi HSG Ngữ văn 9, năm học 2017-2018, Sở GD&ĐT Nghệ An):



Ngoài việc phản ánh đầy đủ sự thật của đời sống, văn học còn có nhiệm vụ buộc người đọc nhìn chăm chú hơn, nghiêm khắc hơn vào bản thân mình, từ đó hiểu sâu sắc hơn sự thật của bản thân mình.


(Hoàng Ngọc Hiến, Văn học và học văn, NXB văn học, 1997, trang 23)


Từ tác phẩm văn học mà em yêu thích, trình bày suy nghĩ về ý kiến trên. Bài


làm



Nghệ thuật là kết tinh của cuộc sống, là nơi dừng chân của muôn vàn vẻ đẹp lấp lánh, tinh khôi. Nghệ thuật đến với ta bằng sự đồng điệu của những tấm lòng, bằng mối giao cảm của những tiếng nói tri âm tri kỉ. Nó thấm đượm vào từng mảng tâm hồn,





đưa ta có đủ nhận thức để vươn tới đỉnh cao của Chân-Thiện-Mĩ. Tác giả Hoàng Ngọc Hiến trong tác phẩm “Văn học và học văn” đã cho rằng “Ngoài việc phản ánh đầy đủ sự thật của đời sống, văn học còn có nhiệm vụ buộc người đọc nhìn chăm chú hơn, nghiêm khắc hơn vào bản thân mình, từ đó hiểu sâu sắc hơn sự thật của bản thân mình”. Ý kiến của tác giả Hoàng Ngọc Hiến rất sâu sắc và Nguyễn Thành Long với tài năng cùng tấm lòng với đời, với người của mình đã viết nên một tác phẩm như thế, ấy là “Lặng lẽ Sa Pa”.


Nghệ thuật nói chung, văn chương nói riêng luôn phải là tấm gương phản ánh cuộc sống, phản ánh hiện thực thời đại. Lấy cuộc sống làm chất liệu, nhà văn thông qua sự trăn trở, thai nghén, sáng tạo để cho ra những đứa con tinh thần. Từ đó mà văn học, nghệ thuật quay lại phục vụ con người, phục vụ cuộc đời, giúp con người hiểu biết về cuộc đời, xã hội trong quá khứ, chuyên tâm về cuộc sống của hiện tại và định hình cuộc đời mới trong tương lai. Văn học nghệ thuật phản ánh cuộc sống nhưng không có nghĩa là “sao chép” mà văn học phản ánh cuộc sống qua “lăng kính chủ quan” của mỗi tác giả, và nhà văn phải là “người thư kí trung thành của thời đại”, đó chính là “phản ánh đầy đủ sự thật của đời sống”, đây cũng chính là một trong những đặc trưng của văn học.


Không những thế, nhiệm vụ quan trọng của văn học nghệ thuật là “buộc người đọc nhìn chăm chú hơn, nghiêm khắc hơn vào bản thân mình, từ đó hiểu sâu sắc hơn sự thật của bản thân mình”. Không chỉ là tấm gương phản chiếu lại cuộc đời mà chức năng của văn chương còn la một tấm gương tiếp theo để người đọc soi rõ bản thân, con người mình. Bản thân mỗi người trong cuộc sống đều có những ràng buộc, những rào cản của chính mình và rất khó để vượt ra khỏi nó, nhưng nghệ thuật lại giúp con người nhìn thấu những vướng mắc, những rào cản đó, tác động vào sâu trong nhận thức, tâm hồn của con người, để con người có thể sống một cách tốt đẹp hơn, trong sạch hơn. Đặc biệt, văn học góp phần giúp con người nhận thức, xây dựng và phấn đấu hoàn thiện mình một cách tự nhiên, tự giác mà luôn bền vững, sâu sắc. Văn học sẽ là ngọn lửa vào sâu trong tâm hồn để làm sáng bừng những nhận thức còn bị ràng buộc, u tối, làm cho con người tự nhìn nhận lại được chính mình. Như vậy, nhận định của tác giả Hoàng Ngọc Hiến đề cập đến những đặc trưng của văn học, đồng thời qua đó cũng thể hiện được chức năng phản ánh cùng chức năng giáo dục mà văn học nghệ thuật thể hiện. Đến với truyện ngắn đầy chất thơ của Nguyễn Thành Long- “Lặng lẽ Sa Pa”, ta sẽ hiểu thêm về nhận định trên.


Nguyễn Thành Long (1925-1991) là một cây bút tiêu biểu của thời kì kháng chiến chống Pháp và thời kì đi lên xây dựng CNXH ở miền Bắc sau 1954. “Lặng lẽ Sa Pa” được ông sáng tác năm 1970, sau chuyến đi thực tế Lào Cai của mình, thể hiện rõ phong cách của ông: nhẹ nhàng, sâu lắng, giàu chất thơ. Truyện đã nhiệt thành ca ngợi những con người lao động mới, dám nghĩ, dám làm, không sợ khó khăn, gian khổ; say mê trong lao động, sáng tạo; nhân hậu và thiết tha yêu cuộc sống.


Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long trước hết đã “phản ánh đầy đủ sự thật của đời sống”, đã là một mảng gương chiếu lại hiện thực cuộc sống lúc bấy giờ. Hiện thực ấy là hiện thực của đất nước ta, của miền Bắc đang đi lên xây dựng CNXH; là hiện thực của những con người đang ngày đêm cống hiến, lao động; là hiện thực của “con người mới, cuộc sống mới” của miền Bắc sau năm 1954. Đó chính là một bác lai xe tận tâm với nghề, suốt những năm làm việc đưa đón khách từ Hà Nội lên với Lào Cai; là một ông kĩ sư vườn rau ngày này sang ngày khác nhìn cách ong lấy phấn để tự mình thụ phấn cho cây, để củ su hào của nhân dân toàn miền Bắc ăn được to hơn, ngọt hơn trước. Đó là anh cán bộ nghiên cứu khoa học luôn trong tư thế sẵn sàng chờ sét “nửa đêm gió rét buốt, mặc, cứ nghe sét là đồng chí choáng choàng chạy ra”, cứ thế mười một năm không một ngày rời xa cơ quan để tìm ra những “của chìm nông, của chìm sâu” cho đất nước, rằng “trán đồng chí cứ hói dần đi nhưng cái bản đồ sét thì sắp xong rồi”. Hay đó còn là một cô kĩ sư dám vứt bỏ mối tình nhạt nhẽo, rời khỏi thành phố phồn hoa đô thị để đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, hưởng ứng phong trào “Ba sẵn sàng” của thanh niên. Một người con gái đang tuổi xuân xanh mà dám vứt bỏ đi những thứ sung sướng để lên miền núi cao nơi Lào Cai làm việc, chẳng phải thật đáng quý lắm hay sao? Đó còn là một ông hoạ sĩ luôn tâm huyết với nghề, hoãn lại tiệc mừng về hưu của mình để đi một chuyến đi thực tế. Người hoạ sĩ lão thành ấy dẫu cho tuổi không còn trẻ nhưng vẫn mong ước được sáng tạo, được cống hiến, vẫn mong ước được tìm ra một nguồn cảm hứng mới cho tác phẩm của mình. Con người ấy luôn yêu đời, yêu cuộc sống, và khi tìm ra nguồn cảm hứng hữu hạn xuất hiện ngay trước mắt, ông đã hí hoáy ghi lại hình ảnh ấy vào trong cuốn sổ. Trong hiện thực của con người mới, với một cu