Docly

Văn mẫu 12: Phân tích đoạn trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt siêu hay

Phân tích hồn Trương Ba da hàng thịt được Trang tài liệu chia sẻ trong bài viết sau đây bao gồm các bài văn mẫu phân tích hồn Trương Ba da hàng thịt đoạn đầu, phân tích ngắn gọn, phân tích đối thoại giữa hồn và xác, phân tích Đế Thích, phân tích đoạn kết… sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích để các bạn học sinh củng cố kiến thức học tập khi làm các bài văn phân tích tác phẩm hồn Trương Ba da hàng thịt trong chương trình Ngữ văn lớp 12.

Dàn ý phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt

Dàn ý phân tích hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 1

a) Mở bài

– Giới thiệu về nhà văn Lưu Quang Vũ (một số nét chính về tiểu sử, các tác phẩm tiêu biểu…)

– Giới thiệu về vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt (hoàn cảnh ra đời, tổng quan vở kịch, sơ lược giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật…)

b) Thân bài

* Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt

– Hồn Trương Ba:

+ Cho rằng mình vẫn có một cuộc sống nguyên vẹn, trong sạch, trung thực

+ Xem xác chỉ là cái vỏ bên ngoài, âm u, đui mù, không có ý nghĩa gì hết, không có lý tưởng, không có cảm xúc, nếu có thì chỉ là những thứ thấp kém. Hồn Trương Ba phủ nhận vai trò của xác anh hàng thịt

+ Thái độ: từ quả quyết, kiên cường sang ấp úng, bịt tai lại, tuyệt vọng

– Xác anh hàng thịt:

+ Cho rằng hồn Trương Ba không thể tách khỏi xác anh hàng thịt, mọi việc làm, hành động của hồn Trương Ba đều chịu sự chi phối của xác anh hàng thịt

+ Thái độ: từ giễu cợt sang quả quyết, cương trực, lấn át và cuối cùng thắng thế

– Kết quả: phần thắng thuộc về xác anh hàng thịt

=> Cuộc chiến đấu giữa phần con và phần người, giữa đạo đức và tội, giữa khát vọng và dục vọng

* Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và những người thân trong gia đình

– Hồn Trương Ba: cho rằng mình vẫn có một cuộc sống riêng, nguyên vẹn, trong sạch và không giả dối

– Những người thân trong gia đình:

+ Vợ Trương Ba: xót xa, khóc lóc, nhận ra Trương Ba không còn là Trương Ba của ngày xưa, “ông đâu còn là ông”

+ Cháu gái: giận dữ, quyết liệt, phản đối nhất mực, cho rằng ông mình đã chết àm thay vào đó là một Trương ba vô cùng vụng về, thô lỗ, phũ phàng

+ Con dâu: đau thương, tâm tình và yêu thương với ông nhưng vẫn thấy không còn nhận ra Trương Ba của trước đây nữa

-> Mỗi người trong gia đình ở một vị trí, một thái độ khác nhau nhưng đều có điểm chung là thấy Trương Ba đã thay đổi, không còn nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn

– Kết quả: Trương Ba vỡ lẽ, nhận ra sự thay đổi của bản thân và sự lấn át của phần xác đối với phần hồn trong ông

=> Mâu thuẫn kịch lên đến đỉnh điểm

* Cuộc đối thoại giữa Trương Ba với Đế Thích và quyết định cuối cùng của hồn Trương Ba

– Sự giác ngộ về ý thức:

+ Không được bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn

+ Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết

+ Không thể sống với bất cứ giá nào được. Có những cái giá quá đắt, không thể trả được… tâm hồn tôi lại trở lại thanh thản, trong sáng như xưa.

-> Con người sống cần có sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn, cần được sống là chính mình và cần phải sống có ý nghĩa,.

– Hành động mang tính bước ngoặt của Trương Ba:

+ Trả lại xác cho anh hàng thịt còn Trương Ba sẽ chết

+ Phép thử của Đế Thích (Trương Ba nhập vào xác cu Tị): Trương Ba đã để cho cu Tị sống còn mình thì chết

-> Một quyết định đầy gian khổ nhưng hết sức đúng đắn của Trương Ba

– Cách kết thúc vở kịch: Đoạn kết có ý nghĩa rất to lớn nó có tác dụng thúc đẩy ý chí nhận thức của con người về cách sống để tránh làm cho tâm hồn của mình bị tổn thương, không hoán đổi thân xác và sống nhờ vào thân xác của người khác.Được sống làm người quý giá thật nhưng được sống đúng mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn.

c) Kết bài

– tổng hợp giá trị nội dung và nghệ thuật của trích đoạn nói riêng và vở kịch nói chung

– Bài học cho bản thân: phải sống là chính mình, không được chạy theo những nhu cầu vật chất tầm thường…

Dàn ý phân tích hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 2

I. Mở bài

  • Giới thiệu về nhà văn Lưu Quang Vũ, trích đoạn Hồn Trương Ba da hàng thịt.
  • Dẫn dắt giới thiệu đến nội dung cần phân tích: nhân vật Trương Ba.

II. Thân bài

1. tình hình éo le của Trương Ba

– Trương Ba là người làm vườn yêu cây cỏ, yêu thương mọi người, sống nhân hậu, trung thực, chưa tới số chết, nhưng vì sự tắc trách của quan nhà trời mà Trương Ba phải chết.

– Hồn Trương Ba phải trú nhơ vào xác anh hàng thịt, một người thô lỗ khiến cho Trương Ba ngày càng thay đổi.

2. Điểm tốt đẹp của Trương Ba

– Hồn Trương Ba cho rằng mình vẫn có một cuộc sống nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn.

– Xem xác anh hàng thịt chỉ là cái vỏ bên ngoài: âm u, đui mù, không có tư tưởng, không có cảm xúc, nếu có thì chỉ là những thứ thấp kém.

– Đối mặt với thái độ của người thân trong gia đình: Trương Ba vỡ lẽ, nhận ra sự thay đổi của bản thân và sự lấn át của phần xác đối với phần hồn trong ông.

– nhân vật tự ý thức bi kịch của mình: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”.

3. Đánh giá lý luận nhân vật Trương Ba

– Hồn Trương Ba là một nhân vật quá chú trọng cuộc sống tinh thần mà coi nhẹ thân xác.

– Bi kịch của nhân tố Hồn Trương Ba là bi kịch về nỗi đau của sự vênh lệch giữa thể xác và tâm hồn trong một con người.

III. Kết bài

Đánh giá và cảm nhận về nhân vật Trương Ba trong tác phẩm văn học Hồn Trương Ba, da hàng thịt.

Dàn ý phân tích hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 3

I. Mở bài

  • Giới thiệu về tác giả Lưu Quang Vũ, trích đoạn Hồn Trương Ba da hàng thịt.
  • Dẫn dắt giới thiệu đến nội dung cần phân tích: bi kịch của nhân vật Trương Ba.

II. Thân bài

1. Bi kịch tha hoá

– Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, nhà sáng tác kịch đã để cho Hồn Trương Ba “ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy” với một lời độc thoại đầy khẩn thiết: “Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi!”. Hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau buồn thể hiện trong những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải. Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn khổ đau bởi mình không còn là mình nữa.

– Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí bởi xác nói những điều mà dù muốn hay không muốn Hồn vẫn phải thừa nhận: Cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với “tay chân run rẩy”, “hơi thở nóng rực”, “cổ nghẹn lại” và “suýt nữa thì…”. Đó là cảm giác “xao xuyến” trước những món ăn mà trước đây Hồn cho là “phàm”. Đó là cái lần ông tát thằng con ông “tóe máu mồm máu mũi”… Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến Hồn càng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy mình ti tiện. Xác anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lý lẽ mà ông đưa ra để ngụy biện: “Ta vẫn có một cuộc sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn…”. Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo khi thì lên mặt dạy đời, chỉ, châm chọc. Hồn chỉ buông những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu.

– Cuộc đối thoại giữa xác hàng thịt và hồn Trương Ba là cuộc chiến đấu giữa thể xác và hồn ma cùng tồn tại trong một con người. Thể xác và hồn ma có quan hệ hữu cơ với nhau, cả hai gắn bó với nhau để cùng sống, cùng tồn tại. Thể xác có tính độc lập tương đối của nó, có tiếng nói của nó, có khả năng tác động vào hồn ma, vì nó là nơi trú ngụ của linh hồn. Khi thể xác tiêu tan thì hồn ma cũng mất. Khi linh hồn “bay đi” thì thể xác cũng trở về cát bụi. Nhờ có linh hồn đối đầu, chi phối với những ham muốn, những dục vọng tầm thường của thể xác mà tính cách được hoàn thiện, tâm hồn được ngây thơ. Câu nói của xác hàng thịt: “Tôi là cái bình để hàm chứa linh hồn” đã cho thấy mối quan hệ hữu cơ giữa thể xác và hồn ma, làm cho ý nghĩa ẩn dụ của đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba với xác hàng thịt thêm cụ thể, sâu sắc.

2. Bi kịch bị từ chối

– Người vợ mà ông rất mực yêu thương giờ đây đau đớn và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Với bà “đi đâu cũng được… còn hơn là thế này”. Bà đã nói ra cái điều mà chính ông cũng đã cảm nhận được: “Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”.

– Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình thân: “Tôi không phải là cháu ông… Ông nội tôi chết rồi”. Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể ghi nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, “Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy”. Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”.

– Chị con dâu là người sâu đậm, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, “khổ hơn xưa nhiều lắm”. Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra cả” khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy… mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nối có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…”

=> Tất cả những người thân yêu của Hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ trêu. Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân tố bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của mình đã khiến Hồn Trương Ba cảm thấy không thể chịu nổi. 3. Bi kịch “bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo”

– Cuộc trò chuyện giữa Hồn Trương Ba với Đế Thích trở thành nơi nhà văn gửi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết. Hai lời thoại của Hồn trong cảnh này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn… Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ giản đơn là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”

– độc giả, người xem có thể nhận ra những ý nghĩa triết lý sâu đậm và thấm thía qua hai lời thoại này:

  • Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội lỗi cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ xinh xắn siêu hình của tâm hồn.
  • Thứ hai, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, giản đơn. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì đời sống ấy thật vô nghĩa.

3. Ứng xử của Trương Ba trước tình trạng bi kịch đó

– Trương Ba phản đối buông xuôi: “chẳng lẽ nào ta lại chịu thua mày…”, ”không cần đến cái đời sống do mày mang lại”.

– Khẳng định cương trực nhu cầu được sống là mình: “không thể bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo”. Với Trương Ba, nhu cầu sống cuối cùng vẫn được đánh giá cao hơn nhu cầu tồn tại. Đặt ra vấn đề “sống như thế nào” là biểu hiện của ý thức cao về sự sống và cách sống để có một cuộc sống niềm hạnh phúc và có ý nghĩa.

– Trong đoạn kết, Trương Ba được giải thoát khỏi bi kịch. Đoạn kết vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” gợi cho người đọc, khán giả nhiều bâng khuâng. Hồn Trương Ba không theo Đế Thích về trời để chơi cờ, mà lại hóa thành màu xanh của cây vườn, vị thơm ngon của trái na, vẫn quấn quýt với người thân, gần gũi nơi bậc cửa, trong ánh lửa, nơi cầu ao, trong cơi trầu, con dao… của vợ con thương yêu. Cho dù thân cát bụi lại trở về cát bụi, nhưng hồn Trương Ba cao khiết vẫn bất tử trong cõi đời. Cái kết đầy thi vị ấy đã làm cho lý tưởng nhân văn tỏa sáng tác phẩm.

III. Kết bài

Khẳng định ý nghĩa của những bi kịch được xây dựng trong hồn Trương Ba, da hàng thịt.

Sơ đồ tư duy phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt

Văn mẫu phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt chọn lọc 

Văn mẫu phân tích hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 1

Lưu Quang Vũ là một nhà sáng tác kịch nổi tiếng. Một trong những vở kịch điển hình của ông là “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. tác phẩm văn học gửi gắm nhiều bài học, lý tưởng nhân văn sâu đậm.

Trương Ba giỏi đánh cờ bị chết oan do Nam Tào làm việc tắc trách. Vì muốn sửa sai nên Nam Tào và Đế Thích đã cho hồn Trương Ba sống lại, nhập vào xác anh hàng thịt vừa chết. Khi trú nhờ trong xác anh hàng thịt, Trương Ba gặp phải rất nhiều phiền toái như lí trưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng, ngay đến gia đình của ông cũng cảm thấy xa lạ… Bản thân Trương Ba cũng khổ đau vì phải sống trái với tự nhiên. Đặc biệt là khi xác anh hàng thịt đã làm cho Trương Ba nhiễm một vài thói xấu. đoạn trích được học kể về cuộc đối thoại giữa Trương Ba với các nhân vật.

Đầu tiên là cuộc đối thoại giữa Trương Ba và xác hàng thịt. Bản thân Trương Ba cho rằng mình vẫn có một cuộc sống nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn. Ông xem xác anh hàng thịt chỉ là cái vỏ bên ngoài với sự âm u, đui mù, không có tư tưởng, không có cảm xúc, nếu có thì chỉ là những thứ thấp kém. Nhưng xác hàng thịt lại cho rằng hồn Trương Ba không thể tách khỏi xác anh hàng thịt, mọi việc làm, hành động của hồn Trương Ba đều chịu sự chi phối của xác anh hàng thịt. Đây chính là cuộc đối đầu giữa phần con và phần người, giữa đạo đức và tội lỗi, giữa khát vọng và dục vọng. Với cuộc đối thoại này, nhà văn đã gửi gắm thông điệp sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống thiên nhiên với sự hòa hợp giữa thể xác và tâm hồn.

Tiếp đến, hồn Trương Ba đã có cuộc trò chuyện với những người thân trong gia đình. Trước tình cảnh của Trương Ba, mỗi người có một thái độ khác nhau. Vợ Trương Ba thương xót trước sự thay đổi của Trương Ba: “Ông đâu còn là ông”, một mực muốn rời khỏi gia đình “đi cày thuê làm mướn ở đâu cũng được… đi biệt”. Còn cái Gái không chịu nhận ông, cho rằng ông nội của mình đã chết mà thay vào đó là một Trương Ba vô cùng vụng về, thô lỗ “Từ nay ông không được động vào cây cối trong vườn của ông tôi nữa!… Chân ông to bè như cái xẻng, giẫm nát lên cả cây sâm quý mới ươm”. Chị con dâu tỏ ra cảm thông, chia sẻ và yêu thương với Trương Ba hơn trước nhưng vẫn không nhận ra Trương Ba của trước đây nữa. Ở một vị trí khác nhau, một thái độ khác nhau nhưng họ đều có điểm chung là thấy Trương Ba đã thay đổi, không còn nguyên vẹn, trong sạch, không giả dối. Để rồi, Trương Ba vỡ lẽ, nhận ra sự thay đổi của bản thân và sự lấn át của phần xác đối với phần hồn trong ông. Ông quyết định sẽ trả lại xác cho anh hàng thịt.

Chính hoàn cảnh đó đã dẫn đến cuộc đối thoại với Đế Thích. Trương Ba đã chỉ rõ cái sai của Đế Thích: “Ông chỉ nghĩ giản đơn là cho tôi sống nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết”. Ông bày tỏ mong muốn: “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”; “Không thể sống với bất cứ giá nào được. Có những cái giá quá đắt, không thể trả được tâm hồn tôi lại trở lại thanh thản, thuần khiết như xưa”. Mọi chuyện trở nên éo le hơn khi nghe cu Tị chết, Đế Thích đề nghị cho hồn Trương Ba nhập vào cu Tị, Trương Ba đã từ chối. Ông đã nhận ra được một loại những rắc rối đằng sau việc này: phải giải thích cho chị Lụa và người thân trong gia đình (đặc biệt là cái Gái – cháu gái của mình nhưng cũng là bạn thân của cu Tị, có khi phải sang nhà chị Lụa ở, tạo cơ hội cho bọn lý trưởng sách nhiễu, thu lợi… Cuối cùng, Trương Ba đã từ chối và yêu cầu Đế Thích để cho cu Tị sống còn mình thì chết. Đây là một cái phối hợp lí, có hậu nếu xét theo ý nghĩa đó là kết quả của cuộc chiến đấu giữa mong muốn được sống, nhưng phản đối đời sống giả dối, không được là chính mình.

Qua trích đoạn Hồn Trương Ba, da hàng thịt, nhà văn muốn gửi gắm thông điệp được sống là người quý giá thật nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn với những giá trị mình vốn cố và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống thiên nhiên với sự hòa hợp giữa thể xác và tâm hồn.

 Văn mẫu phân tích hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 2

Lưu Quang Vũ là một người đa tài, ông hoạt động trong hầu hết lĩnh vực nghệ thuật. Ông vừa có thể viết câu chuyện, làm thơ, am hiểu về hội họa… song có lẽ ấn tượng của ông được khẳng định rõ nhất qua kịch. Kịch của Lưu Quang Vũ giàu tính triết lý mang đậm ý nghĩa nhân văn. Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” cũng là một tác phẩm như thế. Đặc biệt trích đoạn cảnh VII của vở kịch bộc lộ sáng rõ giá trị nhân văn của toàn vở kịch khi diễn ra xung đột gay gắt giữa hồn và xác và được đẩy lên tới đỉnh điểm.

Trước hết, giá trị nhân văn của một tác phẩm văn học có thể được hiểu là vẻ đẹp, thành phần sáng trong một con người song phẩm chất tốt của một con người chỉ thực sự được biểu hiện khi được đặt vào các mâu thuẫn, sự chiến đấu trong hoàn cảnh cụ thể. Ở đó nhân vật luôn cố gắng thoát ra khỏi những bóng tối, những cái xấu xa để khẳng định bản thân mình, vươn tới những giá trị đẹp nhất trong xã hội. Nói như thế, thành phần đặc sắc của giá trị nhân văn là giá trị về ý chí của con người như: trí tuệ, phẩm giá, phẩm chất, tâm hồn… Giá trị nhân văn được coi như là thước đo giá trị văn chương của mọi niên đại.

Hiểu như thế, ta nhận thấy giá trị nhân văn của cảnh VII của vở kịch được miêu tả rõ nét qua nhân tố Trương Ba. Trương Ba là hiện thân của một con người tốt bụng, sống thanh tao và đặc biệt có biệt tài là chơi cờ rất giỏi. Ông là người thường chơi cờ với Đế Thích và hai người trở thành bạn của nhau. Tuy nhiên, do thiếu ý chí trách nhiệm, bị tắc trách trong công việc của mình, các quan nhà trời đã gạch tên Trương Ba ở hạ giới khiến ông Trương Ba bị chết oan. Để sửa sai, Đế Thích cũng là một quan nhà trời đã cho hồn Trương Ba sống lại bằng cách nhập vào xác anh hàng thịt mới chết được một ngày. Từ đây, xung đột mâu thuẫn ở trong nhân vật hồn Trương Ba nảy sinh một cách gay gắt. Nhưng chính mâu thuẫn, sự chiến đấu ấy lại làm ngời sáng giá trị nhân văn của tác phẩm văn học.

khung cảnh một ông Trương Ba ngồi một mình ôm đầu hồi lâu đã cho chúng ta sự chán nản, tuyệt vọng trong tâm hồn. Hồn Trương Ba cảm thấy nỗi tiếc nuối của chính mình khi con người thật của mình đã bị đánh mất. Về hành động, Trương Ba không còn thường hay đánh cờ nữa, trí tuệ không còn được minh mẫn, sáng suốt. Là một người làm vườn, cây cối vốn là một thứ mà trước đây ông hết sức yêu quý và nâng niu, nay ông còn phá hoại cả chúng trên thân xác xù xì, thô kệch và nặng nề của anh hàng thịt : “ông làm bị vỡ tiệt cái chồi non… chân ông giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong vườn, còn “làm hỏng mất cái diều đẹp mà cu Tị rất quý”, “lãm gãy cả nam rách giấy” thậm chí “Trương Ba tát người con trai toét máu mồm, máu mũi”. Về cách sống, dường như phẩm chất Trương Ba thay đổi hẳn, không còn hiền hậu, phấn khởi, tốt bụng với những người trong gia đình và cả với mọi người chung quanh. Ông trở nên cộc cằn, thô lỗ, lại còn bị thân xác lấn át khi ham muốn vợ anh hàng thịt, đứng cạnh vợ anh hàng thịt, ông cảm thấy “tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực”. Như vậy từ hành động tới cách sống của Hồn Trương Ba hoàn toàn biến mất, tha hóa chính là nỗi buồn bã của Hồn Trương Ba. Bởi vì ông hiểu rằng cái tôi của mình trước đây, của một người làm vườn vốn là kí hiệu của cái xinh xắn song giờ đây, con người ấy lại hòa vào xác anh hàng thịt lại là biểu tượng của sự thô lỗ, cộc cằn, hung bạo, ham dục vọng thì thử hỏi làm sao mà không tha hóa, biến chất sao được. Giá trị nhân văn của tác phẩm lại tọa lạc ở chỗ nhà sáng tác kịch không để Hồn Trương Ba trượt dài trên sự tha hóa, biến chất của thân xác vốn không thuộc về mình, không phải là của mình. Một Trương Ba bị gia đình nghi ngờ, cảm thấy xa lạ, tránh xa nên nhân vật nhận thức rõ điều ấy và không muốn sống một đời sống lay lắt, sống dở, chết dở. Hồn Trương Ba quyết tìm gặp Đế Thích để nói lên khát vọng sống đích thực của mình là đòi lại quyền làm người, quyền sống thích đáng của con người. Trong cuộc nói chuyện, Hồn Trương Ba đã lên tiếng phê phán thói ích kỉ của Đế Thích: “Ông chỉ nghĩ giản dị là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!” và bày tỏ ước vọng của mình là muốn được chết vì chỉ có cái chết mới trả lại con người đích thực của Hồn Trương Ba, mới có thể tìm lại một Trương Ba tốt xinh xắn trong mắt mọi người chung quanh như xưa. Đối với Trương Ba, cái chết là một sự giải thoát bộc lộ tinh thần phản kháng, chiến đấu đòi lại quyền làm người, đòi lại một người yêu tự nhiên, yêu gia đình, yêu mọi người. Với khát vọng “ Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” thì đó lại là một cái chết xinh xắn. Tiếng nói ấy là một tiếng nói hết sức lẽ phải, sống đúng với tư cách của một con người là một nhân cách xinh đẹp. Hồn Trương Ba quyết liệt tìm đến cái chết : “Tôi không nhập vào hình thù của ai nữa. Tôi đã chết rồi hãy để tôi chết hẳn”. Và ông còn quả quyết khi đưa ra lời đe dọa với Đế Thích “ Nếu ông không giúp, tôi sẽ nhảy xuống sông, hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng còn, xác anh hàng thịt cũng mất…”. Những lời nói kháng cự quyết liệt của Hồn Trương Ba khi đối diện với Đế Thích càng thấy rõ sức sống tiềm tàng trong con người Hồn Trương Ba thật mãnh liệt để tìm lại chính mình, đòi lại quyền làm người thích đáng của mình khi đã bị các quan nhà trời tước đoạt là phẩm chất tốt đẹp ở nhân vật này.

Một điểm mạnh nữa của Hồn Trương Ba cũng được bộc lộ ở ông đó là tình yêu thương con người. Khi Đế Thích vẫn muốn níu kéo sự sống của Hồn Trương Ba bằng cách đưa ra lời gợi ý, lời khẩn cầu sống trên thân xác của cu Tị hàng xóm trong cơn thập tử nhất sinh, Hồn Trương Ba đã bác bỏ và cùng lúc ấy ông đã xin trả lại sự sống cho anh hàng thịt và cu Tị. Dù Hồn Trương Ba nhận thấy thân xác của anh hàng thịt đã từng cười cợt, ngạo mạn, xem thường, miệt thị Hồn Trương Ba. Nếu không có hắn, Hồn Trương Ba có lẽ sẽ không bị rơi vào tình trạng xót xa, day dứt, giày vò. Nhưng nguyện vọng của Hồn Trương Ba vẫn xin cho anh hàng thịt được sống, được trở về với gia đình, vợ con đã bộc lộ một tấm lòng bao dung, nhân hậu, yêu thương con người của Hồn Trương Ba. Hồn Trương Ba đã lấy ân báo oán, xóa bỏ thù hận trước kia bởi ông hiểu rõ nỗi đau của người vợ khi mất chồng và nỗi đau của người mẹ khi mất con từ đó yêu cầu tha thiết Đế Thích trả lại sự sống cho anh hàng thịt và cu Tị là một tính cách đáng quý.

Để miêu tả lên bản chất tốt đẹp trong sâu thẳm con người của Hồn Trương Ba khiến cho vở kịch mang đậm giá trị nhân văn, Lưu Quang Vũ đã xây dựng được tình huống đầy đầy căng thẳng, lời thoại của nhân vật sinh động, sống động, thu hút, đi sâu vào nội tâm nhân vật với sự đối đầu mâu thuẫn phức tạp, giằng xé. Kịch bản đã nêu lên được thông điệp: Phải tôn trọng quyền làm người, quyền sống của con người và không có sự áp đặt tùy tiện làm cho con người tha hóa, đánh mất chính mình cũng là ý nghĩa nhân văn của vở kịch.

Phân tích hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 3

Hồn Trương Ba,da hàng thịt là một trong những vở kịch nổi tiếng nhất của Lưu Quang Vũ. Vở kịch đặt ra nhiều vấn đề nóng bỏng của xã hội lúc đó-thời điểm những năm tám mươi của thế kỉ XX. Lưu Quang Vũ đã khéo léo mượn lại một tích truyện dân gian cũ để đan cài vào đó những suy nghĩ,quan niệm,triết lí nhân văn mới mẻ và sâu sắc.

Câu chuyện bắt đầu từ khi cuộc sống của Trương Ba bắt đầu tái sinh dưới thân xác anh hàng thịt. Với truyện cổ tích, đó là một kết thúc có hậu và Trương Ba tiếp tục hạnh phúc với hình hài và thân xác mới. Tuy vậy, dưới con mắt của Lưu Quang Vũ,hiện thực cuộc đời được tái hiện theo đúng cách mà nó tồn tại. Vì thế mới nảy sinh một bi kịch mới, đó là bi kịch của một tâm hồn thanh cao,trong sáng lại phải sống chật chội trong thân xác của một anh chàng thịt phàm phu tục tử,thô lỗ,bản năng. Tuy vậy, sau ba tháng trú ngụ trong thân xác anh hàng thịt, với những lí lẽ đầy cám dỗ của thân xác,tâm hồn thanh cao của Trương Ba cũng có lúc bị tha hóa,phải làm những điều trái với tư tưởng, đạo lí của mình để thỏa mãn thân xác. Đó chính là bi kịch nội tại của nhân vật.

Sống trong xác anh hàng thịt, Trương Ba nhận thấy mình ngày càng bị tha hóa và đau khổ hơn là hồn Trương Ba không thể giải quyết được mâu thuẫn đó. Bi kịch được đào sâu,tạo xung đột qua các đoạn đối thoại.

Đầu tiên là cuộc đối thoại căng thẳng, quyết liệt giữa hồn và xác. Xác-bằng những lí lẽ đầy cám dỗ và những chứng cứ xác thực đã làm cho hồn thấy rằng sự tồn tại của nó cũng có cái thú vị. Đó là cảm giác khát thèm xác thịt, cảm giác khát thèm miếng ăn, sự đắc thắng trước bạo lực. Xác anh hàng thịt cũng sắc sảo không kém khi chỉ ra: “Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông là hay vin vào cớ tâm hồn là quý, khuyên con người sống phải vì phần hồn, để rồi bỏ bê cho thân xác họ mãi khổ sở, nhếch nhác”. Những câu cảm thán ngắn, dồn dập: “Không! Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch,thẳng thắn! ta cần gì đến cái sức mạnh làm ta trở thành tàn bạo; Nói láo! Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết,không có tư tưởng, không có cảm xúc…”

Bi kịch ấy vẫn chưa dừng lại. Tuy nhiên, qua lí lẽ của anh chàng hàng thịt, tác giả cũng hàm ý rằng, thể xác cũng có tiếng nói riêng. Đó là tiếng nói của bản năng, của đam mê, dục vọng đời thường. Vì thế, con người phải có khát vọng sống thanh cao nhưng cũng không thể tách hồn khỏi xác vật chất đời thường. Đó cũng là sự mâu thuẫn giữa khát vọng và bản năng con người.

Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của mình đã khiến Hồn Trương Ba đã cảm thấy không thể chịu nổi. Và hồn đã quyết không thể khuất phục xác được nữa. Hồn Trương Ba đã phản kháng quyết liệt:” Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!. Đây là lời đối thoại có tính chất quyết định dẫn đến hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát.

Qua bi kịch của hồn Trương Ba, nhà văn Lưu Quang Vũ muốn gửi đến những thông điệp đến người đọc. Đó là con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ ra rằng, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa.

Màn kết, Trương Ba trở lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn được trong sạch, hóa thân vào các sự vật thân thương và tồn tại vĩnh cửu bên người thân. Cuộc sống trở lại quy luật tuần hoàn của muôn đời. Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát cho một bi kịch lạc quan, đồng thời gửi đến cho người đọc thông điệp và sự chiến thắng của cái Thiện cái Đẹp và sự sống đích thực.

Từ tích truyện cổ dân gian, Lưu Quang Vũ đã sáng tạo nên một vở kịch có sức lôi cuốn mạnh mẽ, gửi tới người đọc một thông điệp sâu sắc về triết lí sống. Tính đa tầng, đa nghĩa, đã thanh trong vở kịch này là một sáng tạo mới của Lưu Quang Vũ. Chính sự đa hiệu ấy đã làm nên sức hấp dẫn và nguồn sống dạt dào cho vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt!

Phân tích hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 4

Lưu Quang Vũ là người có tài về nhiều mặt như: viết văn, làm thơ, vẽ tranh…nhưng ông được xem là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học Việt nam. Những vở kịch của ông đã làm xôn xao dư luận và được đón nhận nồng nhiệt của khán giả. Phần lớn các vở kịch của ông đều được các đoàn nghệ thuật dàn dựng, trong đó vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt là đặc sắc nhất. Lưu Quang Vũ đã có rất nhiều sáng tạo. Ông đã đổ rượu mới vào bình cũ để kể lại chuyện hài xưa như một bi kịch triết lí thời nay. Qua vở kịch Lưu Quang Vũ đã gửi gắm rất nhiều suy nghĩ và quan niệm sống của mình đến với khán giả.

Nhan đề truyện thể hiện một quan niệm: Giữa hồn và xác phải có một sự tương hợp hài hòa, thế nhưng ở đây có sự khập khiễng không thể hòa hợp. Đặc biệt là hồn của một người thanh cao, trong sáng, trung thực lại ngụ trong xác của một kẻ tầm thường, phàm tục, đầy bản năng, thô lỗ. Bi kịch này sinh từ đó. Như vậy tên gọi của vở kịch đã thâu tóm được những mâu thuẫn xung đột bên trong của một con người. Điều nảy sinh là linh hồn là hồn trong sạch đang dần dần bị tha hóa. Từ chỗ thanh cao đến chỗ có những ham muốn tầm thường. Nhan đề đã thâu tóm những mâu thuẫn xác định ngay trong một con người. Đây là mâu thuẫn nội tại.

Bi kịch của Trương Ba là ông phải chịu chết oan, khi được sống lại phải sống trong cái xác của anh hàng thịt. Ông nhận ra bản thân dần bị tha hóa, tâm hồn trong sạch ngay thẳng đang bị cái thể xác thô lỗ, ranh mãnh, ve vãn, chế nhạo, cám dỗ. Có lúc hôn phải thỏa hiệp với những đòi hỏi bản năng của xác. Bây giờ không còn thích đánh cờ – một thú vui trí tuệ, thanh cao. Những nước cờ không còn phóng khoáng mà tủn mủn vô hồn. Không còn là người có bàn tay khéo léo nữa mà là một kẻ vụng về. Bên trong một đường, bên ngoài một nẻo. Ý thức được điều đó nên hồn càng thêm đau khổ. Đây là sự đau khổ vì không làm chủ được bản thân. Đây cũng là nỗi đau khổ của con người khi phải sống trong hoàn cảnh không phù hợp với mong ước của mình, không phải là chính mình.

Bi kịch của Trương Ba không chỉ là bi kịch của cá nhân mà còn là bi kịch gia đình. Quay lại với thể xác, hồn Trương Ba phải đối diện với một xung đột khác đó là bi kịch không được thừa nhận. Người vợ hiền thục rất đau khổ, tìm cách tránh mặt và định bỏ đi. Con trai thì hư hỏng, cháu nội thì tỏ thái độ thù ghét và đuổi ông đi. Đứa con dâu là người cảm thông với ông nhất, tiếc nuối một người cha chồng trước kia thì lại vướng mắc với một loại câu hỏi rất khó lí giải: “…làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi?”.Trương Ba đã rơi vào cái khổ của việc không được chia sẻ và thấu hiểu. Cháu nội thù ghét không nhận và đuổi ông đi, dù ông có thanh minh. Ông đã gây ra những xáo trộn, bất an trong gia đình, gia đình lại khổ lây vì sự nhũng nhiễu của lí tưởng.

Như vậy, Trương Ba đã rơi vào tình thế cô đơn ngay tại nhà mình. Trương Ba ý thức nỗi khổ này của vợ con lớn hơn cả nỗi khổ khi chôn ông xuống đất. Ông đã tự ý thức được tất cả và cảm thấy mình có lỗi với gia đình. Điều đó cho ta thấy Trương Ba là một con người rất vị tha.

Bi kịch của Trương Ba là ở chỗ mình không phải là mình. Khổ vì bị sự trói buộc có tính định mệnh của phần xác đối với phần hồn. Đây là nỗi đau khổ tột cùng của Trương Ba. Để thể hiện điều này, Lưu Quang Vũ đã tạo ra một cuộc đấu trí đầy trí tuệ giữa linh hồn và thể xác. Tiếng nói của xác là tiếng nói của bản năng. Tiếng nói của Trương Ba là tiếng nói của con người thanh cao, trong sạch, tự ý thức. Đó là cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai mặt tồn tại của con người, thể hiện khát vọng hướng thiện và tầm quan trọng của việc tự ý thức về bản thân và vượt lên chính mình.

Anh hàng thịt cũng không kém phần khôn ngoan, lí lẽ cũng có phần đúng đắn: “Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông là hay vin vào cớ tâm hồn là quý, khuyên con người sống vì phần hồn, để rồi bỏ bê cho thân xác của họ nỗi khổ sở nhếch nhác…”. Vì thế mâu thuẫn cũng khó có thể giải quyết nhanh chóng. Qua lí lẽ của anh hàng thịt tác giả cũng muốn nói lên một điều: Con người phải có khát vọng sống thanh cao nhưng cũng không thể tách hồn khỏi vật chất đời thường, cũng như những nhu cầu chính đáng rất con người. Mặt khác tác giả cũng muốn nói lên những người vượt lên hoàn cảnh đã gặp không ít trở lực có lúc làm cho họ nản lòng. Điều đó thể hiện qua những câu thoại có vẻ đuối lí của Trương Ba. Rồi hồn Trương Ba phải thỏa hiệp và nhập vào xác anh hàng thịt, đuối lí bởi những lí lẽ vừa khó chịu vừa chứa đựng một phần chân lí. Màn đối thoại vừa có tính chất hài kịch lại vừa có tính bi kịch. Màn đối thoại vừa toát lên giọng điệu nghiêm trang lại vừa có ý mỉa mai hài hước. Đó là một sự kết hợp giữa hài kịch và bi kịch của người nghệ sĩ tài ba. Bi kịch này có sự mâu thuẫn giữa khát vọng và khả năng.

Hồn Trương Ba ý thức được nghịch cảnh mình nên đau đớn day dứt cùng với sự tác động từ bên ngoài: lí trưởng, gia đình nên Trương Ba phải gặp Đế Thích để giải quyết vấn đề này. Màn đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích cũng rất đặc sắc. Ngôn ngữ của Đế Thích là ngôn ngữ dụ dỗ thuyết phục: lí lẽ không ngoan có vẻ có lí, nâng cao giá trị của Trương Ba, bôi bác sự giả dối có trên thiên đình. Tiên thánh cũng không được sống theo những gì mình nghĩ ở bên trong, đến Ngọc Hoàng cũng phải ép mình cho xứng danh Ngọc Hoàng. Trên trời, dưới đất người ta đều thế cả. Đế Thích sửa sai lại càng thêm sai. Trương Ba đã bác bỏ một cách cương quyết: “Thần có thể chấp nhận một cuộc sống như thế chứ con người thì không” và khăng khăng đòi chết, không chịu nhập vào cái xác của ai nữa. Bi kịch của ông bắt đầu từ khi ông được sống lại trong cái xác anh hàng thịt. Như vậy, là con người ai cũng muốn là chính mình mà không muốn sống tạm bợ, chắp vá. Trương Ba đã ý thức được vấn đề là sống như thế nào chứ không phải chỉ được sống là đủ. Trương Ba đã dũng cảm chấp nhận cái chết để bảo vệ chân lí, bảo vệ nhân cách, bảo vệ các giá trị nhân sinh và dù có chết cũng là cái chết bất tử. Dù là nghịch lí nhưng đó là con đường phục hưng những giá trị nhân văn. Đó là cuộc thắng lợi của cuộc tranh chấp muôn thuở giữa cái thánh thiện và cái phàm tục. Trương Ba đã chiến thắng được mình và còn chủ động phê phán khuyên bảo Đế Thích. Đó là chuyện phi thường, một ông tiên phải đuối lí trước con người. Cuối cùng phải thốt lên một câu như vỡ lẽ ra một điều mới: “con người dưới hạ giới các ông thật là kì lạ”. Hóa ra các lực lượng siêu nhiên, thần thánh tuy có thể quyết định được việc sống chết của con người nhưng không thể can thiệp vào sự tự do của con người. Lưu Quang Vũ đã thể hiện niềm tin sâu sắc vào con người vào khả năng vươn lên mọi thực tế nghiệt ngã. Thật xúc động khi hồn Trương Ba xuất hiện giữa màu xanh lá với lời nói thật thiết tha. Cái chết của Trương Ba là cái chết bất tử, tâm hồn của ông vẫn sống mãi giữa màu xanh cây vườn. Bi kịch của Trương Ba là một bi kịch lạc quan.

Qua bi kịch của Trương Ba nhà văn Lưu Quang Vũ muốn gửi đến người đọc những thông điệp: Con người cần phải sống hài hòa giữa hai mặt vật chất và tinh thần. Không nên kì thị những đòi hỏi vật chất của con người, cần tôn trọng quyền tự do cá nhân, giúp mỗi người phải được là mình, sống đúng với chính mình. Và phải sửa chữa những sai lầm để xây dựng một tương lai tốt đẹp.

Phân tích hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 5

Trong làng kịch nói Việt Nam, có lẽ ai cũng biết đến Lưu Quang Vũ – một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỉ XX. Tuy có tài ở nhiều lĩnh vực như viết truyện ngắn, soạn kịch, làm thơ, vẽ tranh… nhưng ông được xem là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt nam hiện đại.

Trong các vở kịch của Lưu Quang Vũ, đáng chú ý nhất là vở “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Bằng nghệ thuật xây dựng nội tâm độc đáo, cảnh VII, đoạn cuối vở kịch đem đến cho người đọc nhiều vấn đề tư tưởng sâu sắc qua nhân vật Trương Ba trong thân xác anh hàng thịt.

Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch được Lưu Quang Vũ viết năm 1981, công diễn lần đầu tiên năm 1984, sau đó được diễn lại nhiều lần trong và ngoài nước. Từ cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng lại thành một vở kịch nói hiện đại và lồng vào đó nhiều triết lí nhân văn về cuộc đời và con người. Trong tác phẩm, Trương Ba là một ông lão gần sáu mươi, thích trồng vườn, yêu cái đẹp, tâm hồn thanh nhã, giỏi đánh cờ.

Chỉ vì sự tắc trách của Nam Tào gạch nhầm tên mà Trương Ba chết oan. Theo lời khuyên của “tiên cờ” Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu “sửa sai” bằng cách cho hồn Trương Ba được tiếp tục sống trong thân xác của anh hàng thịt mới chết gần nhà. Nhưng điều đó lại đưa Trương Ba và một nghịch cảnh khi linh hồn mình phải trú nhờ vào người khác.

Do phải sống tạm bợ, lệ thuộc, Trương Ba dần bị xác hàng thịt làm mất đi bản chất trong sạch, ngay thẳng của mình. Ý thức được điều đó, Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt. Qua các cuộc đối thoại của Trương Ba, tác giả dần tạo nên một mạch truyện dẫn dắt người xem hiểu sâu hơn về Trương Ba.

Có thể nói Trương Ba đã chết một cách vô lý, ai cũng biết cái chết của Trương Ba là do sự vô tâm và tắc trách của Nam Tào. Nhưng sự sửa sai của Nam Tào và Bắc Đẩu theo lời khuyên của Đế Thích nhằm trả lại công bằng cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một nghịch cảnh vô lí hơn là linh hồn mình phải trú nhờ trong thể xác của kẻ khác. Do phải sống nhờ thể xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba đành phải chiều theo một số nhu cầu hiển nhiên của xác thịt.

Linh hồn nhân hậu, trong sạch, bản tính ngay thẳng của Trương Ba xưa kia, nay vì phải sống mượn, vá lắp, tạm bợ và lệ thuộc nên chẳng những đã không sai khiến được xác thịt thô phàm của anh hàng thịt mà trái lại còn bị cái xác thịt ấy điều khiển. Đáng sợ hơn, linh hồn Trương Ba dần dần bị nhiễm độc bởi cái tầm thường của xác thịt anh đồ tể. Hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ (Những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải).

Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Hồn Trương Ba cũng càng lúc càng rơi vào trạng thái đau khổ, tuyệt vọng. Ý thức được điều đó linh hồn Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt để tồn tại độc lập, không lệ thuộc vào thể xác.

Xác hàng thịt biết rõ những cố gắng đó là vô ích, đã cười nhạo hồn Trương Ba, tuyên bố về sức mạnh âm u, đui mù ghê gớm của mình, ranh mãnh dồn hồn Trương Ba vào thế đuối lý và hơn nữa, ve vãn hồn Trương Ba thỏa hiệp vì, theo lý lẽ của xác thịt là “chẳng còn cách nào khác đâu”, vì cả hai “đã hoà vào nhau làm một rồi”. Trước những “lí lẽ ti tiện” của xác thịt, Trương Ba đã nổi giận, đã khinh bỉ, đã mắng mỏ xác thịt hèn hạ nhưng đồng thời cũng ngậm ngùi thấm thía nghịch cành mà mình đã lâm vào, đành nhập trở lại vào xác thịt trong tuyệt vọng.

Hai hình tượng hồn Trương Ba và xác hàng thịt ở đây mang ý nghĩa ẩn dụ. Một bên đại diện cho sự trong sạch, nhân hậu và khát vọng sống thanh cao, xứng đáng với danh nghĩa con người và một bên là sự tầm thường, dung tục. Nội dung cuộc đối thoại xoay quanh một vấn đề giàu tính triết lí, thể hiện cuộc đấu tranh dai dẳng giữa hai mặt tồn tại trong một con người.

Từ đó nói lên khát vọng hướng thiện của con người và tầm quan trọng của việc tự ý thức, tự chiến thắng bản thân. Màn đối thoại này cho thấy: Trương Ba được trả lại cuộc sống nhưng là một cuộc sống đáng hổ thẹn vì phải sống chung với sự dung tục và bị sự dung tục đồng hoá. Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả cảnh báo: khi con người phải sống trong dung tục thì tất yếu cái dung tục sẽ ngự trị, sẽ thắng thế, sẽ lấn át và sẽ tàn phá những gì trong sạch, đẹp đẽ, cao quý trong con người.

Không phải ngẫu nhiên, tác giả không đưa anh con trai thực dụng của Trương Ba vào cuộc đối thoại của Trương Ba với những người thân. Các cuộc đối thoại với vợ con dâu và cháu gái càng làm cho Trương Ba đau khổ hơn. Ông hiểu những gì mình đã, đang và sẽ gây ra cho người thân là rất tệ hại mặc dù ông không hề muốn điều đó. Thái độ của vợ trương Ba, con đâu và cháu gái trước sự biến đổi và tha hoá của Trương Ba.

Vợ Trương Ba buồn bã, đau khổ nhưng vốn bàn tính vị tha nên định nhường Trương Ba cho cô vợ anh hàng thịt. Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, “khổ hơn xưa nhiều lắm”.

Những nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra cả” khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy… mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nối có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…”.

Trái lại, cái Gái, cháu Trương Ba thì phản ứng quyết liệt và dữ dội. Tâm hồn tuổi thơ vốn trong sạch, không chấp nhận sự tầm thường, dung tục nên không chấp nhận người ông trong thể xác anh hàng thịt thô lỗ. Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình thân (tôi không phải là cháu ông… Ông nội tôi chết rồi). Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong mảnh vườn của ông nội nó.

Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, “Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy”. Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”. Tuy nhiên, họ chỉ là những người dân thường, họ không giúp gì được cho tình trạng hiện tại của Trương Ba.

Tình huống kịch thúc đẩy Trương Ba phải lựa chọn và sau màn độc thoại nội tâm (hồn Trương Ba thách thức xác anh hàng thịt: “có thật là không còn cách nào khác?” và phản kháng quyết liệt: “Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”). !”. Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát.

Gặp lại Đế Thích, Trương Ba thể hiện thái độ kiên quyết chối từ, không chấp nhận cái cảnh phải sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo nữa và muốn được là mình một cách toàn vẹn “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Qua lời thoại này của nhân vật Trương Ba. Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm vào đó thông điệp: Con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hoà. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục tội lỗi.

Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng đổ lỗi cho thân xác và tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Lúc đầu Đế Thích ngạc nhiên nhưng khi hiểu ra thì khuyên Trương Ba nên chấp nhận vì thế giới vốn không toàn vẹn, dưới đất, trên trời đều thế cả. Nhưng Trương Ba không chấp nhận lí lẽ đó. Trương Ba thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích: “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt.

Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống thế nào thì ông chẳng cần biết”. Sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Lòng tốt hời hợt thì chẳng đem lại điều gì thực sự có ý nghĩa cho ai mà sự vô tâm còn tệ hại hơn, nó đẩy người khác vào nghịch cảnh, vào bi kịch!

Đế Thích định tiếp tục sửa sai của mình và của Tây Vương Mẫu bằng một giải pháp khác, tệ hại ít hơn là cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị nhưng Trương Ba đã kiên quyết từ chối, không chấp nhận cái cảnh sống giả tạo, mà theo ông là chỉ có lợi cho đám chức sắc tức lão lí trưởng và đám trương tuần, không chấp nhận cái cuộc sống mà theo ông là còn khổ hơn là cái chết. Trương Ba kêu gọi Đế Thích hay sửa sai bằng một việc làm đúng, đó là trả lại linh hồn cho bé Tị.

Đế Thích cuối cùng cũng đã thuận theo đề nghị của Trương Ba với lời nhận xét: “Con người hạ giới các ông thật kì lạ”. Người đọc, người xem có thể nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời thoại này. Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn.

Thứ hai, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Những lời thoại của Hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất hiện.

Qua màn đối thoại, có thể thấy tác giả gửi gắm nhiều thông điệp vừa trực tiếp vừa gián tiếp, vừa mạnh mẽ, quyết liệt vừa kín đáo và sâu sắc về thời chúng ta đang sống. Tuy vậy, chỉ cần nhấn mạnh ở đây vẻ đẹp tâm hồn của những người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự dung tục, giả tạo để bảo vệ quyền được sống toàn vẹn, hợp với lẽ tự nhiên cùng sự hoàn thiện nhân cách. Chất thơ của kịch Lưu Quang Vũ cũng được bộc lộ ở đây.

Trương Ba trả lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn được trong sạch và hoá thân vào các sự vật thân thương, tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu của mình. Cuộc sống lại tuần hoàn theo quy luật của muôn đời. Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát cho một bi kịch lạc quan đồng thời truyền đi thông điệp về sự chiến thăng của cái Thiện, cái Đẹp và của sự sống đích thực.

Không chí có ý nghĩa triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người, rong vở kịch nói chung và đoạn kết nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ: Thứ nhất, con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển.

Thứ hai, lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Cả hai quan niệm, cách sống trên đều cực đoan, đáng phê phán. Ngoài ra, vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức xúc, đó là tình trạng con người phải sống giả, không dám và cũng không được sống là bản thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi.

Với tất cả những ý nghĩa đó, đoạn trích rất tiêu biểu cho phong cách viết kịch của Lưu Quang Vũ.

Phân tích hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 6

Một triết gia người Đức đã từng nói: “Anh phải trở về cái gì của chính anh”. Câu nói ấy là tiếng nói phải được sống là chính mình để trở thành một con người hoàn thiện. Tiếng nói ấy cũng gợi chúng ta nghĩ tới vở kịch “ Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của nhà viết kịch Lưu Quang Vũ, thông qua nhân vật Hồn Trương Ba cũng bật lên tiếng gọi, lời khẩn cầu tha thiết được sống là chính mình “Không thể sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Chỉ với câu nói ấy nhưng cũng toát lên một nỗi niềm, nỗi bi kịch đau đớn cùng khát vọng chính đáng của chính nhân vật Hồn Trương Ba.

Trước tiên, xét về thể loại văn học, bi kịch có thể được hiểu là một thể loại kịch trong đó chứa đựng những mâu thuẫn, xung đột căng thẳng, gay gắt giữa cái thiện và cái ác, cái tốt và cái xấu, giữa cái cao cả và cái thấp hèn do vậy mà nhân vật bi kịch thường xuất phát điểm là những con người hiền lành, lương thiện do các yếu tố chủ quan hay khách quan bị đẩy vào bi kịch, khiến mình trở nên khác đi không còn giống như ban đầu song họ vẫn ý thức được điều đó nên bị rơi vào trạng thái đau khổ, bế tắc, trăn trở tìm lối thoát cho mình nhưng kết thúc thường là cái chết của nhân vật.

Soi chiếu cách hiểu trên vào nhân vật Hồn Trương Ba, ta nhận thấy nhân vật ấy là một nhân vật bi kịch. Đó là nỗi bi kịch tinh thần đau đớn của nhân vật. Bi kịch ấy xuất phát từ nỗi niềm muốn sửa sai của Đế Thích-một quan nhà trời và là bạn chơi cờ của ông Trương Ba đã nhập hồn Trương Ba vào xác anh hàng thịt. Từ đây mâu thuẫn bắt đầu nảy sinh, một con người mà được kết hợp bởi hai thực thể hoàn toàn đối lập, trái ngược nhau. Một Trương Ba yêu thiên nhiên, yêu gia đình, hòa nhã với mọi người, có tài đánh cờ giỏi lại kết hợp với xác anh hàng thịt là một tên đồ tể giết lợn, thô lỗ, cộc cằn, ham rượu, ham đàn bà. Giữa hai thực thể đối lập nhau đã dần dần khiến Hồn Trương Ba tha hóa, biến chất. Hồn người này kết hợp với xác người kia là việc đi ngược lại với quy luật tự nhiên vốn có, một sự áp đặt tùy tiện, máy móc. Cuối cùng Hồn Trương Ba biến chất một cách đau đớn, thảm hại, xót xa. Về hành động, Trương Ba không còn thường hay đánh cờ nữa, trí tuệ không còn được minh mẫn, sáng suốt. Là một người làm vườn, cây cối vốn là một thứ mà trước đây ông hết sức yêu quý và nâng niu, nay ông còn phá hoại cả chúng trên thân xác xù xì, thô kệch và nặng nề của anh hàng thịt: “ông làm gãy tiệt cái chồi non… chân ông giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong vườn, còn “làm hỏng mất cái diều đẹp mà cu Tí rất quý”, “lãm gãy cả nan rách giấy” thậm chí “Trương Ba tát người con trai toét máu mồm, máu mũi”. Về cách sống, dường như tính cách Trương Ba thay đổi hẳn, không còn hiền hậu, vui vẻ, tốt bụng với những người trong gia đình và cả với mọi người xung quanh. Ông trở nên cộc cằn, thô lỗ, lại còn bị thân xác lấn át khi ham muốn vợ anh hàng thịt, đứng cạnh vợ anh hàng thịt, ông cảm thấy “tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực”. Như vậy từ hành động tới cách sống của Hồn Trương Ba hoàn toàn biến mất, tha hóa chính là nỗi đau đớn của Hồn Trương Ba. Bởi vì ông hiểu rằng cái tôi của mình trước đây, của một người làm vườn vốn là biểu tượng của cái đẹp song giờ đây, con người ấy lại hòa vào xác anh hàng thịt lại là biểu tượng của sự thô lỗ, cộc cằn, hung bạo, ham dục vọng thì thử hỏi làm sao mà không tha hóa, biến chất sao được. Chính Hồn Trương Ba đã phải bộc lộ rằng: “ Không thể sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Lời nói của Hồn Trương Ba biểu hiện nỗi day dứt, giày vò khi con người ngày trước bị biến mất hoàn toàn, quyết liệt bày tỏ với một thái độ dứt khoát “ Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời mi ngay tức khắc ”. Không dừng lại ở đó, Hồn Trương Ba còn bộc lộ sự ghê tởm, chán chường của mình trước thân xác của anh hàng thịt “ Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng ” , ta sẽ “ tách ra khỏi cái xác này dù chỉ là một lát ”. Qua những suy nghĩ và lời nói của nhân vật Hồn Trương Ba ta có thể thấy rõ Lưu Quang Vũ đã đi sâu vào đời sống nội tâm nhân vật, thấu hiểu và cảm thông với nỗi đau đớn của Hồn Trương Ba.

Song bi kịch của Hồn Trương Ba không chỉ dừng lại ở đó, ông lại lâm vào bi kịch thứ hai có phần đau đớn hơn bi kịch trước. Đó là khi ông bị gia đình nghi ngờ, xem thường và xa lánh. Tất cả mọi người thân trong gia đình từ người vợ, người con trai cả, đứa cháu gái và cả người con dâu ai ai cũng xa lạ, nghi ngờ và xem thường ông vì họ không tìm thấy ở ông một ông Trương Ba làm vườn của ngày trước hiền lành, đôn hậu. Khi Hồn Trương Ba gần vợ anh hàng thịt khiến ông “ tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực” biểu thị sự ham muốn trỗi dậy không còn “ sự hiền lành, vui vẻ, tốt lành” như xưa, đến nỗi cả vợ ông khi nhìn thấy chồng mình trước tình cảnh như thế, vừa thương vừa giận vừa ghen và muốn xa lánh ông ngay lập tức. Bà vợ đã tâm sự thẳng thắn với ông: “ Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa” và bà quyết định “ Có lẽ tôi phải đi… đi cấy thuê, làm mướn, ở đâu cũng được…, đi biệt… Để ông được thảnh thơi… với cô vợ hàng thịt… Còn hơn là thế này…”. Những suy nghĩ này của vợ Trương Ba xuất phát từ nỗi đau trong tâm hồn người vợ, khi biết chồng mình đâu còn là con người của trước đây. Rồi người con trai cả, trước kia đều vâng lời lắng nghe ý kiến của cha nhưng nay anh lại “ quyết định, dứt khoát sẽ bán khu vườn để có tiền mở thêm vốn liếng cửa hàng thịt” dù Hồn Trương Ba không chấp nhận. Và hình ảnh cái Gái vốn rất yêu thương, kính mến ông nội này cũng không thừa nhận ông đồng thời lên án sự thô bạo, tàn nhẫn, giẫm nát cây cối trong vườn, phá hỏng cái diều của cu Tị và phẫn nộ hét lên: “ Ông xấu lắm, ác lắm ! Cút đi ! Lão đồ tể cút đi !” rồi lại nói tiếp: “ Nếu ông nội tôi hiện về được, hồn ông nội tôi sẽ bóp cổ ông”. Ngay cả người con dâu cảm thông, hiểu rõ nỗi đau khổ của bố chồng nhưng sâu trong thâm tâm vẫn nghi ngờ người bố chồng hiện nay. Người con dâu đã tâm sự với ông: “ Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy… mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa”. Lời tự bạch của người con dâu rất đỗi chân thật, cảm thông nỗi khổ của bố chồng khi đánh mất những gì tốt đẹp của ngày xưa rồi cô lại tiếp tục nói: “Thầy ơi! Làm sao, làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con ngày xưa”. Hàng loạt những suy nghĩ từ người thân trong gia đình đã chứng tỏ ai ai cũng xa lánh, nghi ngờ, xem thường Trương Ba hiện tại.Như vậy, giữa hai thực thể là người làm vườn biểu tượng cho cái đẹp và thân xác tên đồ tể biểu tượng cho cái xấu, cái ác đã làm cho Trương Ba không còn nguyên vẹn “hồn nào xác ấy” như xưa được nữa.

Chính vì lâm vào hai bi kịch như trên, Hồn Trương Ba đã mời Đế Thích về để tỏ bày khát vọng chính đáng của mình: “Không thể sống bên trong một đằng bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Hồn Trương Ba tha thiết xin trả lại xác anh hàng thịt và cho mình được chết vì ông nghĩ rằng: “ Tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn”. Nhưng Đế Thích vẫn muốn để Trương Ba được sống để tiếp tục có người đánh cờ cùng, có người khen mình là tiên cờ nên đã đề nghị Hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị ( con chị Lụa ) vừa mới chết. Nhưng cách giải quyết này của Đế Thích cũng vẫn là cách đi ngược lại với quy luật của tạo hóa, đâu khác chi với hoàn cảnh thực tại của mình. Và Hồn Trương Ba đã yêu cầu Đế Thích cho anh hàng thịt và cu Tị được sống, được trở về với gia đình và để Trương Ba chết. Hồn Trương Ba nói: “ Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”. Lời nói ấy càng cho thấy rõ sự tắc trách của các quan nhà trời, càng sửa lại càng sai, càng làm cho con người rơi vào bế tắc, đau khổ, đánh mất chính mình. Suy nghĩ của Hồn Trương Ba, dù không còn trên cõi đời này nhưng hình ảnh một ông Trương Ba hiền hậu, vui vẻ sẽ mãi sống trong lòng mọi người với tình yêu thương và lòng kính trọng. Đó chính là một khát vọng sống chính đáng. Vở kịch khép lại, kết thúc bằng cái chết của nhân vật Trương Ba nhưng lại lấp lánh tính nhân văn, triết lý. Đó là một hướng giải quyết phù hợp với lẽ tự nhiên, với quy luật đạo đức với con người.

Làm nên sự thành công của vở kịch, ta không thể không nhắc tới nghệ thuật xây dựng tình huống đầy kịch tính, lời thoại nhân vật sống động, chân thật, đi sâu vào nội tâm nhân vật để khắc họa lên nhân vật Hồn Trương Ba với những bi kịch nhưng đậm chất nhân văn. Lưu Quang Vũ đã thổi vào nền kịch nói Việt Nam sau 1975 một làn gió mới. Và chắc chắn sức sống của nó sẽ còn mãi trong lòng bạn đọc đến hôm nay và cả mai sau.

Phân tích hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 7

Được sống là chính mình là một mong ước, khao khát của không ít người. Hiểu được điều đó, Lưu Quang Vũ – nhà biên kịch tài năng đã dựa trên một tác phẩm dân gian để tạo nên một tác phẩm để đời, gây một tiếng vang lớn trong thời gian đó, đó là vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Tác phẩm đã mang tới những thành công lớn cho Lưu Quang Vũ cũng như nền sân khấu kịch Việt Nam.

Tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt được Lưu Quang Vũ chắp bút từ một câu chuyện dân gian. Câu chuyện kể về Trương Ba – một người làm vườn chất phác, cần cù, yêu thương con cháu nhưng lại bị “chết nhầm” do sự tắc trách của quan trên thiên đình. Nhờ sự giúp đỡ của tiên cờ Đế Thích, Trương Ba sống lại nhờ việc nhập hồn vào xác anh hàng thịt. Những tưởng điều đó phải là sự may mắn, niềm vui bất ngờ, thế nhưng, Trương Ba trong xác anh hàng thịt lại không thể vui vẻ sống. Sự thô kệch về ngoại hình, tính cách thô thiển của người hàng thịt khiến Trương Ba dần trở nên thay đổi trong mắt những người thân. Sự thay đổi trong tính cách và con người đã khiến Trương Ba vô cùng đau khổ, day dứt. Cuối cùng để giải quyết mọi mâu thuẫn, Trương Ba đã quyết định trả lại xác cho anh hàng thịt, xin Đế Thích ban sự sống cho cu Tị (bạn của cháu gái ông) còn mình thì rời khỏi trần thế. 

Đoạn trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt trong là chương thứ VII và đoạn kết của tác phẩm. Nội dung chính là sự đau khổ, dằn vặt của Trương Ba, ông muốn thoát khỏi tình cảnh nương nhờ ở thực tại, muốn được sống là chính mình. Qua vở kịch, Lưu Quang Vũ đã mang đến cho độc giả thông điệp vô cùng sâu sắc: được sống là điều quý giá, nhưng được sống đúng là chính mình thì điều đó còn quý giá hơn, sống là sự hoà hợp giữa thể xác và tâm hồn, là theo đuổi những giá trị mà mình hằng mơ ước.

Phần đầu của trích kịch là cuộc tranh cãi nảy lửa của phần hồn và phần xác khi mà hồn Trương Ba không thể chịu nổi sự lấn át của thể xác, khi mà cái xác đang dần tha hóa ông bằng những nhu cầu tầm thường, dung tục. Trong khi Trương Ba đề cao sự “cao khiết”, “nguyên vẹn, thẳng thắn” thì cái xác lại cho rằng nó “là cái bình chứa linh hồn”, “phải tồn tại nhờ” nó cũng như “chiều theo những đòi hỏi của” nó. Đó là bi kịch của cuộc đời Trương Ba, bi kịch phải sống nhờ và bị tha hoá, cũng như bị người thân chối bỏ.

Bi kịch đầu tiên của ông là bi kịch của sự tha hoá, bi kịch phải sống như một cành tầm gửi. Đoạn trích của vở kịch mở đầu bằng lời than vãn đau khổ của Trương Ba: “Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi”. Đó là lời độc thoại của ông, lời nói thốt lên trong sự bế tắc đầy đau khổ, sự u uất không lối thoát. Một linh hồn cao khiết nhường ấy, giờ đây lại phải chịu một thân xác kềnh càng, thô lỗ, mà cái xác ấy đang dần lấn át đi cái thanh cao, đôn hậu vốn có của ông. Từ bao giờ, ông đã thích uống rượu, thích bán thịt và chẳng còn hứng thú mặn mà với cái thú chơi tao nhã là đánh cờ, chăm vườn cây kia nữa. Hồn của Trương Ba bối rối, hoang mang, đau khổ, trong giọng điệu có sự gấp gáp, sự ghê tởm tràn đầy “Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi! Cái xác kềnh càng thô lỗ, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi ngay tức khắc! nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỏ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát”. Những câu nói mang đầy sự ghê sợ, nỗi oán hận khi không được là chính mình. Quả là một sự kết hợp khập khiễng, sự kết hợp ấy khiến cho Trương Ba trở thành một cành “tầm gửi” sống ký thác vào một cái xác “âm u, đui mù”, khác biệt với con người ông. Và giờ đây, ông chỉ muốn bứt ra “tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát”. Còn gì đau khổ hơn khi tự nhận sự tha hóa trong bản thân mình mà không có cách nào dừng lại được! Đó là bi kịch, là nỗi đau khôn cùng của một tâm hồn thanh cao, “nguyên vẹn” như Trương Ba.

Và thật sự, hồn Trương Ba đã tách khỏi cơ thể của hàng thịt thô kệch, thế nhưng bi kịch tha hoá của ông lại càng được bộc lộ rõ hơn qua cuộc đối thoại với cái xác. Trong khi Trương Ba cho rằng chính cái xác của anh hàng thịt đã khiến mình đổ đốn, khiến ông tha hoá, thay đổi thì cái xác hàng thịt lại trả lời rằng: “Nực cười thật! Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi mà còn nhận nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Nếu như hồn Trương Ba cho rằng cái xác chỉ thì “xác thịt âm u đui mù” thì cái xác đã đưa ra những lí lẽ đanh thép, trần trụi đến đáng sợ. Nó nhắc tới những khát vọng xác thịt, “những thứ thấp kém” như “ăn ngon, thèm rượu thịt”, và rồi, nó nhắc tới sức mạnh “tát thằng con ông tóe máu mồm máu mũi”.  Đó là những thứ cái xác đã và đang biến đổi ông, thế nhưng, nó cũng là thứ giúp ông làm được những điều yêu thích như làm vườn, chơi cờ. Trong cuộc đối thoại ấy, những lý lẽ của cái xác quả là ti tiện thật, thế nhưng nó lại đúng, và Trương Ba với tâm hồn cao khiết kia chẳng thể phản bác được đôi lần.

Ngược lại, về phía phần hồn, ông không thể giữ được bình tĩnh, bởi mỗi lời của cái xác nói ra đều là sự thật, đều khiến ông phải “bối rồi” mà quát lên “đã bảo mày im đi”. Những lời nói của nó đã khiến cho ông cảm thấy xấu hổ, cảm thấy không còn tin tưởng được vào bản thân mình “một linh hồn nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”, nó đã khiến ông tuyệt vọng. Trong khi Trương Ba luôn nghĩ mình trong sạch, thế nhưng, ông lại thường chiều theo những khát vọng của cái xác rồi đổ lỗi là do cái xác chi phối. Hồn trong sạch còn cái xác thì ti tiện được chăng, hay phải chăng, hai thứ đó đã pha trộn và Trương Ba đã không còn là Trương Ba của ngày nào nữa?

Bi kịch giữa của hồn Trương Ba là ẩn dụ cho bi kịch về lối sống con người. Một bên là sự thanh cao, là khát vọng sống cao thượng còn một bên là một cuộc sống vật chất tầm thường. Hai lối sống đó xung đột gay gắt trong đời sống hằng ngày cũng như phần hồn Trương Ba và cái xác hàng thịt vậy. Con người phải biết chăm chút cả tâm hồn và thể xác chứ không thể chỉ chăm chút một bên, bởi nếu không, hẳn có một ngày chúng ta cũng sẽ sống trong sự lệch lạc, trong sự mâu thuẫn giữa thể xác và tâm hồn.

Bi kịch cứ nối tiếp bi kịch khi những người thân trong gia đình mà ông vốn yêu thương đang dần xa lánh ông vì không thể chấp nhận một Trương Ba như thế. Từ người vợ yêu thương, không thể chịu nổi một Trương Ba thô kệch, đã muốn bỏ đi biệt xứ, bói sự thay đổi của ông, bởi xóm làng đàm tiếu và bởi sự tha hoá trong con người ông. Cái Gái – đứa cháu ông yêu thương, giờ đây nhìn ông bằng sự “lặng lẽ, soi mói” và đến cuối cùng, sau bao ngày chịu đựng, nó quyết không nhân ông. Nó thấy ông “làm gãy mầm cây canh, đập nát mầm cây sâm quý”, “làm hỏng diều của cu Tị”, những điều mà Trương Ba chưa bao giờ làm lúc còn sống. Sự thay đổi của người ông đã khiến nó không thể chịu đựng nổi. Có lẽ vì thế mà ông nhận ra rằng mình đã tha hoá, đã thay đổi tới mức không còn nhận ra. Và câu chuyện của người con dâu dường như đã thức tỉnh, khơi mào cho mọi hoang mang, hoài nghi trong hồn Trương Ba, rằng: “cái bên ngoài là không đáng kể… mỗi ngày thấy một khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhoài mờ dần đi…”

Những câu nói, thái độ của người thân đã khiến cho hồn Trương Ba buộc phải ra một quyết định gì đó, quyết định tháo gỡ hết thảy những vấn đề của mình, của mọi người. Không chấp nhận để cái xác lấn át phần hồn trong sạch còn lại của mình nên ông đã gọi Đế Thích xuống và khẳng định “không thể sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn là chính mình”. Đây là lời khẳng định mà đáng ra Trương Ba phải nói ngay từ ban đầu, ngay từ khi nhận ra cái xác đã biến đổi bản thân mình. Và quyết định cuối cùng của Trương Ba đó là “hãy để tôi chết hẳn”, xác anh hàng thịt thì trả lại cho anh và ông đã xin cho cu Tị – bạn cái Gái được sống lại. Chỉ với một quyết định như thế, ông đã cảm nhận được “tâm hồn tôi lại được thanh thản và trong sáng như xưa”. Hẳn quyết định cao thượng đó của Trương Ba không hề dễ dàng, bởi là con người, khát khao lớn nhất là được sống, được ở bên những người thân yêu. Thế nhưng, với một con người như Trương Ba, sống mà không được làm chính mình thì không phải là sự sống thật sự.

Cái kết của câu chuyện tưởng chừng như là bi kịch ấy lại là một cái kết đầy nhân hậu. Hình ảnh cu Tí chạy lại bên mẹ nó đã khiến người xem thấy cảm động hơn bao giờ hết bởi đó là sự đánh đổi với cái chết của Trương Ba. Vườn cây của Trương Ba lại rung rinh những màu xanh mát, vườn cây ấy là nơi lưu giữ hình ảnh của một Trương Ba hiền hậu, một Trương Ba là chính mình với tâm hồn cao khiết. Trương Ba đã ra đi trong thanh thản, trong sự yêu thương trọn vẹn của người thân.

Vở kịch khép lại đã để lại cho chúng ta nhiều dư âm sâu sắc, những thông điệp quý giá. Đó là hãy luôn cố gắng là chính mình, cố gắng giữ gìn tâm hồn trong sạch, nguyên vẹn là mình. Cuộc đời nhiều cám dỗ, thế nhưng, hãy giữ vững tư tưởng, để mãi về sau, khi trở về với cát bụi, ta vẫn là ta, thanh thản và trọn vẹn là mình. Lưu Quang Vũ với vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt xứng đáng là một trong những tác phẩm kịch xuất sắc nhất trong sân khấu kịch Việt Nam.

Phân tích hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 8

Lưu Quang Vũ (1948-1988) là nhà thơ, nhà văn và nhà soạn kịch nổi tiếng của nền văn học Việt Nam hiện đại, và đặc biệt thành công trong thể loại kịch nói. Dù có đời sáng tác không dài chỉ trong khoảng 10 năm, thế nhưng Lưu Quang Vũ đã để lại cho nền văn học nước nhà tới gần 50 vở kịch có giá trị, phản ánh rõ những thực trạng của đất nước và con người đương thời, đặc biệt là ở giai đoạn những năm 80, khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, nhưng con người vẫn chưa kịp thích nghi còn bị chi phối bởi những điều cũ dẫn tới tình trạng mâu thuẫn giữa cá nhân và tập thể. Trong số nhiều vở kịch được dàn dựng của Lưu Quang Vũ thì Hồn Trương Ba da hàng thịt là vở kịch nổi tiếng và được dựng lại nhiều nhất. Tác phẩm thu hút người đọc người xem không chỉ ở cốt truyện hấp dẫn mà còn nằm ở những triết lý sống rất sâu sắc được thể hiện thông qua các nhân vật, về mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác, về lối sống thanh bạch, về mối quan hệ tình cảm giữa con người với nhau,… tất cả đã làm nên sức hấp dẫn qua nhiều năm của tác phẩm.

Bối cảnh câu chuyện xảy ra trong một tình huống dở khóc dở cười của nhân vật Trương Ba, mà sau đó nó đã diễn tiến dần trở thành bi kịch tồi tệ nhất trong cuộc đời ông cũng như đối với cả gia đình ông. Trương Ba vốn là một nông dân có cuộc đời viên mãn, sống hiền lành bên vợ con và các cháu, ông không chỉ khéo léo trong công việc vườn tược mà còn là một người có tài đánh cờ rất hay. Cũng chính nhờ cái tài đánh cờ ấy mà ông trở thành người bạn tâm giao của Đế Thích, hai người thường xuyên đấu cờ với nhau rất vui vẻ. Tuy nhiên thật không may rằng, trên Thiên Đình trong lúc Nam Tào và Bắc Đẩu xem xét sổ sinh tử đã vô tình gạch nhầm tên của Trương Ba khiến ông phải nhận cái chết oan ức. Đúng lúc ấy, Đế Thích lại đi vắng thế nên không thể cứu sống được Trương Ba, đến lúc trở về thì bạn cờ của ông đã chết được một tháng, phần hồn tuy còn nhưng xác đã hỏng cả, không thể cứu vãn. 

Để cố cứu bạn mình Đế Thích bèn thương lượng với Nam Tào cho hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt mới chết. Trương Ba cuối cùng cũng sống lại, thế nhưng thay vì hạnh phúc sung sướng khi được đoàn tụ với gia đình thì ông lại lâm vào những bi kịch không hồi kết, bi kịch của việc hồn một đằng xác một nẻo! Trương Ba sống lại một cách “kỳ dị”, đồng thời phải đối diện với hai gia đình, hai người vợ, mà nói cách nào ông cũng không thể bỏ bên này đến bên kia. Đồng thời ngoài sự giằng xé thân tình, Trương Ba còn phải chịu đựng sự giằng xé giữa tâm hồn và thể, ông luôn phải tranh đấu quyết liệt với những ham muốn tầm thường của xác thịt để bảo vệ cái phần hồn thánh khiết mà ông vẫn tự hào.

Đoạn trích Hồn Trương Ba da hàng thịt bắt đầu với cảnh Trương Ba quay cuồng đau khổ khi phải chống lại sự chi phối của cái xác, cùng với đó là cuộc đối thoại gay gắt giữa hồn Trương Ba và cái xác của hàng thịt. Trước đó chính bản thân Trương Ba sau khi về đoàn tụ với gia đình, ông đã nhận ra bản thân mình có quá nhiều sự thay đổi thông qua những lời nói của những người xung quanh, từ lời ông Trưởng Hoạt, đến cô con dâu, rồi sự đau khổ của người vợ kết tóc, cuối cùng là sự xa lánh của đứa cháu gái ông vẫn hằng yêu quý. Và điều đó càng trở nên rõ ràng thông qua cuộc đối thoại gay gắt giữa hồn Trương Ba với cái xác.

Trong khi bản thân Trương Ba luôn cố gắng để tuyệt đối hóa phần hồn, coi xác thịt chỉ là thứ “âm u đui mù” không có tiếng nói, và không có khả năng chi phối phần hồn. Thì trên thực tế, hồn Trương Ba lại đang bị chính xác thịt lấn át không chỉ trong cuộc tranh cãi bằng những lý lẽ bén nhọn, mà còn cả trong cuộc sống trong những thói quen thường ngày. Cái xác đã chỉ ra tường tận những sự thay đổi trong con người Trương Ba, từ việc ông trở nên ham thích uống rượu ăn thịt, ghiền cả món tiết canh mà trước đây ông vẫn từng ghê sợ, đến việc ông không còn thiết tha gì mấy với món cờ mà ông vẫn từng tâm đắc. Không chỉ vậy trong mối quan hệ gia đình, tình cảm cha con đã sứt mẻ chỉ bởi vì ông giáng cho thằng con trai một cái tát đến hộc cả máu mồm, việc mà trước đây người dịu dàng, thanh cao như Trương Ba chẳng tài nào làm nổi,… Ngoài ra ấn tượng nhất là việc xác thịt đã chỉ ra việc Trương Ba nổi lên khao khát nhục dục với người vợ trẻ trung của anh hàng thịt, khiến Trương Ba cảm thấy xấu hổ và tội lỗi vô cùng cực. 

Cái xác đã chỉ ra từng cái từng cái một, lên án, và vạch trần Trương Ba bằng những lý lẽ và chứng cứ bén nhọn nhất, khiến ông không thể nào chối cãi. Đứng trước thực cảnh tủi nhục và khốn khổ ấy Trương Ba chỉ có thể cố hết sức chống chế bằng những lý lẽ yếu ớt, ông không chịu công nhận sự tiếng nói của cái xác, cho rằng nó không có tư tưởng, không có cảm xúc. Trương Ba đổ lỗi cho cái xác đã làm ông tha hóa, khiến ông trở nên  tầm thường, làm hại ông bởi những thèm muốn khát khao của nó. Thế nhưng cái xác đã nhanh chóng phản bác lại Trương Ba thật sâu cay rằng Trương Ba đã thực sự buông thả, bản thân chiều theo ham thích của cái xác, để mình cũng được “tham dự vào chút đỉnh”. Thế nhưng là một người ưa sĩ diện, ông đã đem đổ hết những tội lỗi ấy cho cái xác, còn bản thân mình một một lòng đinh ninh rằng bản thân sống với một tâm hồn hồn “nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”, để bản thân được cảm thấy thanh thản, dễ chịu bằng cách tự lừa mình dối người như thế. Nhưng đứng trước sự vạch trần đầy thách thức và có phần bỉ ổi của cái xác, những lớp phòng tuyến cuối cùng để bảo vệ cái tôi thanh bạch của Trương Ba dần sụp đổ. Ông giận dữ và tủi nhục trước những sự thực không thể chấp nhận, trước việc bản thân dần tha hóa theo lối sống dung tục, tầm thường, quên đi hết cái “chất” Trương Ba thánh khiết, cao thượng ngày xưa. Và ngay lúc này ông chỉ muốn cái xác lập tức im miệng, thôi không vạch trần ông nữa, đồng thời muốn tách ra khỏi nó ngay lập tức, để khỏi chịu phụ thuộc, khỏi bị nó chi phối, kéo dẫn ông vào những sự đổ đốn khác.

Sau màn tranh cãi nảy lửa, và phần thắng thuộc về cái xác, Trương Ba rơi vào cảnh trầm tư, với hàng vạn nỗi đau khổ trong lòng. Đang lúc ấy, người vợ của ông về đến, và nói ra ý định ra đi của mình, điều này lại tiếp tục mở ra một bi kịch khác trong câu chuyện – bi kịch tan ra của một gia đình. Người vợ bấy lâu vẫn gắn bó với Trương Ba, sau khi chứng kiến sự thay đổi quá nhiều của người chồng, không còn là người chồng trước đây mà bà yêu quý, tôn thờ nữa, nên bà muốn dứt áo ra đi, để mắt không trông thấy thì không còn đau khổ nữa, cũng để cho Trương Ba được thanh thản làm những việc mình muốn. Thêm vào đó là câu chuyện người con trai của Trương Ba muốn bán đi khu vườn, vốn là tâm can của ông để hành nghề mổ lợn, ấy thế là khu vườn nơi lưu dấu biết bao nhiêu kỷ niệm của gia đình, là nơi một tay Trương Ba săn sóc tỉ mẩn cũng sắp tiêu tán mất. Trương Ba đối diện với từng sự việc ấy chỉ biết ôm đầu đau khổ, khi ông nhìn thấy đứa cháu gái mình thương yêu nhất, ông đã như tìm được ngọn cỏ cứu mạng, thế nhưng sự lạnh lùng, chối bỏ của đứa cháu đã như cắt vào tim của Trương Ba, khiến ông đau đớn khôn nguôi. Cái Gái không chịu nhận người trước mắt là ông nội, trong mắt nó Trương Ba trong xác hàng thịt là một kẻ thô lỗ cục cằn, bàn chân to bản đã xéo nát hết cả đám sâm quý mới ươm, đôi tay giết lợn đã làm gãy tiệt cả cái chồi non mới nhú. Sự vụng về tệ hại ấy đã khiến đứa bé căm ghét đến tận cùng, đối với nó kẻ trước mắt này đang phá hoại hết tất cả những gì mà ông nó dày công gây dựng, chăm sóc cả đời. Rồi cả việc Trương Ba làm hỏng cái diều của cu Tị, thằng bé hàng xóm đang bị ốm nặng gần hấp hối, điều đó càng khiến cái Gái ấm ức và tức giận hơn. Con bé bỏ chạy, để lại Trương Ba thẫn thờ và ngơ ngác, thì người con dâu xuất hiện, cô vẫn kính trọng và thương cha chồng như xưa. Và hơn ai hết cô chính là người thấu hiểu tất cả những nỗi đau và bi kịch của mọi người trong gia đình này, đồng thời cũng thẳng thắn chỉ ra những sự đổi khác của Trương Ba sau khi từ cõi chết trở về, “mọi thứ cứ lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi chính con cũng không nhận ra thầy nữa,…” Những câu nói từ tận đáy lòng ấy đã thức tỉnh Trương Ba, để ông hoàn toàn chấp nhận sự thay đổi đáng sợ của mình, cũng từ đó nhìn rõ được căn nguyên của mọi bi kịch đó chính là sự tham lam sự sống, sự chắp vá gượng ép, khiên cưỡng khi mà hồn và xác chẳng có chút sự tương đồng nào cả. Từ đó hướng nhân vật đến cách tháo gỡ bi kịch, thoát khỏi cảnh đau khổ vì những sai lầm bấy lâu nay.

Trương Ba tìm Đế Thích và nói việc ông muốn rời khỏi xác hàng thịt, khẳng định rằng bản thân không thể tiếp tục cái cuộc đời bên trong một nẻo, bên ngoài một đằng nữa, “tôi muốn là tôi toàn vẹn”. Nhưng điều đó cũng đồng nghĩa là Trương Ba phải chấp nhận rời đi mãi mãi không còn được sống trên cuộc đời này nữa, Đế Thích thấy vậy thì thật không cam lòng, trước hết là tiếc vì mất đi một người bạn tri kỷ, thêm nữa là bao công sức để cho Trương Ba sống lại giờ trở thành vô nghĩa. Sự ích kỷ trong lòng Đế Thích khiến ông ta dùng mọi lý lẽ để khuyên giải ông bạn của mình, thế nhưng Trương Ba dường như không muốn thay đổi ý định, bởi lẽ ông đã đủ đau khổ lắm rồi và ông chỉ muốn kết thúc hết mọi bất hạnh này bằng cách đưa mọi thứ về vị trí vốn có của nó. Đúng lúc ấy tin cu Tị chết truyền đến, Đế Thích vẫn không từ bỏ việc lay chuyển quyết định của Trương Ba, bèn thuyết phục hồn Trương Ba đến trú nhờ và xác của cu Tị. Phải nói rằng đề nghị này của Đế Thích chính là một cám dỗ và thử thách dành cho Trương Ba, khiến ông phải cân nhắc đắn đo một hồi. Thế nhưng sau khi trải qua một lần bi kịch hồn một nơi, xác một nẻo Trương Ba hiểu rõ rằng dù có thay nơi trú ngụ linh hồn, thì đến cuối cùng có lẽ bi kịch lại tiếp tục xảy ra, ông lại sẽ đi vào vết xe đổ một lần nữa. Trương Ba quyết định từ chối đề nghị của Đế Thích đồng thời cầu xin ông ta cho cu Tị một cơ hội được sống lại, còn bản thân mình chấp nhận cái chết. Chi tiết truyện đã mang đến cho người đọc những nhận thức mới rằng, dường như con người Trương Ba đang dần trở lại, với một tâm hồn thánh khiết và cao thượng, không bị cám dỗ bởi những thứ dung tục tầm thường, kể cả đó có là một cuộc đời được tại thế dài hơn nữa trong thân xác cu Tị. Đoạn kết của tác phẩm là cảnh khu vườn xanh mướt có hồn Trương Ba đang chập chờn xuất hiện, khẳng định tính nhân văn của vở kịch rằng dù không còn sống trên đời nữa thế nhưng Trương Ba vẫn sống trong ký ức của mọi người với một tâm hồn cao đẹp, thánh khiết, sự chăm chỉ, khéo léo và tài chơi cờ nổi bật. Khẳng định một triết lý nhân sinh cao đẹp rằng con người chết không phải là hết, mà vẫn tiếp tục cuộc sống theo một cách khác, ấy là sống trong trái tim những người ở lại.

Hồn Trương Ba da hàng thịt là một tác phẩm có sức hấp dẫn và sâu sắc với nhiều triết lý nhân sinh được lồng ghép. Khẳng định sự thống nhất và liên quan chặt chẽ giữa phần hồn và phần xác, hai thứ vốn phải luôn đi chung, không thể tách rời, khẳng định tất mọi sự chắp vá xiên xẹo chỉ đều đem đến sự vô lý và nhiều bi kịch. Đồng thời tác phẩm cũng cổ vũ con người luôn hướng tới việc hoàn thiện nhân cách, phẩm giá, chiến thắng những cám dỗ tệ hại, lên án lối sống trong ngoài bất nhất, không lành mạnh.

Phân tích hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 9

Những năm tháng trên ghế nhà trường được tiếp xúc với nền văn học nước nhà bằng nhiều thể loại phong phú luôn là những kí ức, dấu ấn khó phai nhất trong tâm hồn mỗi người. Em không làm sao quên được những vần thơ mặn nồng thiết tha và đầy xúc cảm của Hàn Mặc Tử, Chế Lan viên hay những câu thơ chạm đáy hồn nhân thế trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Em cũng không thể nào không nhớ bát cháo hành đầy tình người của Thị Nở trong những trang văn của Nam Cao hay nỗi xót xa, đắng cay cho số phận người con gái tài năng nhưng số phận không may mắn của nàng Mị trong “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài. Và đến với kịch Việt Nam, Lưu Quang Vũ đã khiến em cũng không khỏi trăn trở trước những tấn bi kịch của cuộc đời con người qua vở kịch:”Hồn Trương Ba, da hàng thịt”.

Trương Ba vốn là một người hiền lành, nổi tiếng với tài chơi cờ. Ông cũng rất chăm chỉ làm ăn, lại làm vườn rất giỏi và có một cuộc sống hạnh phúc bên gia đình của mình. Nhưng trớ trêu thay, vì sự tắc trách của Nam Tào trên thiên đình mà Trương Ba buộc phải chết, để sửa chữa lỗi lầm của mình họ đã hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt để tồn tại. Song, dường như tấn bi kịch lớn lại bắt đầu từ đây. Dù Trương Ba vốn là người có tâm hồn trong sạch, thủy chung, nhân hậu nhưng khi nhập vào xác anh hàng thịt lại khiến Trương Ba vô cùng bức bối và chịu sự chi phối rất nhiều từ cái xác thô kệch ấy.

Cuộc sống “bên trong một đằng bên ngoài một nẻo” khiến cho Trương Bạ chẳng dễ dàng gì để đối mặt với mọi người, sống cuộc sống bình thường như khi trước. Trong xác hàng thịt, Trương Ba làm mọi việc rất vụng về, khó khăn, thậm chí có phần thô lỗ, hung bạo, ngày càng trở nên xấu xa hơn. Trương Ba đang bị xác anh hàng thịt điều khiển, không kiềm chế, điều chỉnh được những cảm xúc của chính mình nữa. Trương Bạ vô cùng bực tức, giận dữ khi không thể nào thoát được khỏi cái thân xác tồi tệ kia, dù đưa ra mọi lý lẽ nhưng anh hàng thịt chỉ cười nhạo hả hê coi đó là sự hiển nhiên và đưa ra những lí do vô cùng ti tiện, ngông cuồng. Hơn ai hết, lúc này đây, Trương Ba hiểu được sự đau đớn tột cùng và bi kịch của cuộc đời mình.

Khi nói chuyện với những người thân yêu trong gia đình, ông càng thấm thía hơn những cảm nhận của họ, Trương Ba hiểu được rằng họ cũng có những cảm xúc riêng, khó khăn riêng. Một người vợ vốn bên cạnh ông bao năm luôn bao dung, nhân hậu vậy mà dường cũng không thể chịu đựng, chấp nhận được nữa. Đứa con dâu bấy lâu luôn yêu thương ba cũng bày tỏ những nỗi xót xa mà cô có thể hiểu cho cuộc sống của ông, nhưng rồi cũng phải nghẹn ngào bày tỏ: “Thầy bảo con cái bên ngoài là không đáng kể…đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa”. Đứa cháu gái khi xưa vốn hết mực kính trọng người ông yêu quý của mình giờ cũng hoảng sợ, hắt hủi trước bộ dạng này của ông. Trong trí nhớ ngây thơ của đứa bé ấy là một người ông hiền hậu, khéo léo chứ không phải là một kẻ to béo, hậu đậu, thô lỗ kia. Em đã thẳng thắn từ chối, không chấp nhận một ai khác ngoài ông nội trong tiềm thức của nó: “Tôi không phải là cháu ông….ông nội tôi chết rồi”. Càng nghĩ, càng đau khổ. Càng sống, càng xót xa. Dường như nỗi chán chường đến tận cùng cái thể xác không phải là mình, không là của mình đã khiến ông phải thốt lên rằng: “Không cần đến cái đời sống do mày mang lại. Không cần” bằng một sự dứt khoát vô cùng mãnh liệt trước cái xác anh hàng thịt.

Cuối cùng, để giải thoát cho chính mình, ông đã tìm đến Đế Thích. Ông thể hiện sự phản kháng của mình với cái thân xác xấu xa kia với thần Đế: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Mặc cho vị thần kia có giải thích rằng cuộc sống không có gì là hoàn hảo cả, nên chấp nhận sự không toàn vẹn của bản thân mình, Trương Ba vẫn một mực khẳng định: “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác… nhưng sống thế nào thì ông chẳng cần biết”. Câu nói của Trương Ba khiến Đế Thích thấy vô cùng kì lạ bởi trong đầu ông luôn tồn tại ý nghĩa sẽ không bao giờ có điều gì toàn vẹn cả trong cuộc sống này, kể cả chốn trần gian hay nơi thiên đình. Khi thỏa hiệp cho Trương Ba nhập vào xác cu Tị ông vẫn kiết quyết từ chối. Hơn ai hết, có lẽ giờ đây ông hiểu được rằng, không thể nào có một cuộc sống ý nghĩa thực sự nếu sống nhờ thân xác của kẻ khác. Chấp nhận cái chết không phải là điều dễ dàng nhưng sống mà không được là mình thì càng khó khăn hơn gấp bội.

Cuộc đấu tranh giữa hồn Trương Ba và da hàng thịt là cuộc đấu tranh giữa phần “con” và phần “người” trong một bản thể. Con người để có thể tồn tại đích thực với những giá trị sống bền vững và cao đẹp nhất khi và chỉ khi có sự hoà hợp giữa linh hồn và thể xác. Không thể có một tâm hồn thanh cao sống nhờ vào thân xác của một kẻ thô tục, dối trá. Vì vậy, Trương Ba lựa chọn cái chết để được sống là mình toàn vẹn,  để bảo vệ cho tâm hồn đẹp đẽ của mình trước những sự tha hoá, dụng tục, thô bạo,.. để vươn tới những vẻ đẹp tinh thần là lựa chọn hợp lí cho thấy được tinh thần đấu tranh của những con người lao động lương thiện và phẩm chất cao quý.

Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” đã để lại cho chúng ta những bài học nhận thức đầy suy ngẫm mà vô cùng giá trị. Đó là sự tổng hòa giữa vật chất và tinh thần trong đời sống con người, cần phải dùng hoà để phát triển. Đừng bao giờ chạy theo những ham muốn vật chất tầm thường mà khiến bản thân trở nên mất giá trị và cũng đừng bao giờ vì coi trọng đến tinh thần mà bỏ bê đời sống vật chất, phải biết thích nghi với hoàn cảnh và giữ cho bản thân không bị hoàn cảnh chi phối. Đó còn là triết lý sống về hiện tượng sống nhờ, sống gửi vào kẻ khác, phê phán những kẻ giả tạo, giỏi xu nịnh để tiến thân mà không sống đúng với năng lực, khả năng của mình. Vì mưu cầu danh lợi mà bán rẻ lương tâm.

Bằng tài năng của mình, Lưu Quang Vũ đã xây dựng một vở kịch vô cùng thành công trên nhiều phương diên. Nghệ thuật ngôn từ giản dị, ngôn ngữ đối thoại khắc họa rõ tính cách của từng nhân vật, xung đột kịch hấp dẫn và gây cấn. Nội dung vô cùng sâu sắc, chứa tầng sâu giá trị triết lý, bởi vậy mà tác phẩm sống mãi với đời sống văn học, văn hoá của dân tộc qua bao năm tháng.

Phân tích hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 10

Nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ nổi tiếng với những tác phẩm có nội dung giàu tính hiện thực, có tính đả kích sâu sắc và mang đậm giá trị nhân văn. Một trong những vở kịch nổi tiếng nhất của ông phải nhắc đến đó chính là tác phẩm Hồn Trương Ba da hàng thịt. Trong tác phẩm này những vấn đề mấu chốt và tình huống truyện đều tập trung xoay quanh nhân vật Trương Ba, một con người phải sống nhờ ở đậu trong thân xác của người khác.

Trước khi đột ngột qua đời, Trương Ba là một người đàn ông hiền lành đức độ trong gia đình, ông là một hình mẫu mực thước cho tất cả các thành viên noi theo. Chính vì vậy ông rất được vợ con yêu thương, con cháu kính trọng. Ông là người không những nho nhã, thanh lịch lại rất thông minh và hiểu biết, nước cờ ông đánh họa chăng chỉ có Đế Thích mới giải vây được. Có thể thấy được đây là con người tri thức, nền nã vừa đẹp ở tâm hồn nhân cách lại có những hành vi ứng xử văn minh.

Tuy nhiên, chỉ vì một sai sót của Nam Tào, Bắc Đẩu khi vội đi chơi mà khiến cho Trương Ba phải chết oan. Cái chết của Trương Ba đột ngột và vô lý đến nỗi khi vợ Trương Ba gặp Đế Thích để đòi lại sự công bằng Đế Thích cũng phải bối rối. Công bằng ấy được sửa chữa, vá víu bằng cách cho hồn Trương Ba nhập vào trong thân xác của hàng thịt. Thế nhưng đây cũng là lúc bắt đầu bi kịch của Trương Ba.

Trương Ba dần trở nên thô thiển hơn, có những hành động lỗ mãng, không còn giống với con người của ông trước kia. Ông trở nên tham ăn tục uống, ăn uống phàm phu tục tử, nói năng thì bỗ bã, thô thiển, hành vi thì lố bịch. Trương Ba đã làm những việc trước đây ông chưa từng làm: tát con trai, làm “gãy tiệt cái chồi non” của cây cam, giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm, đã “làm gãy cả nan, rách cả giấy, hỏng mất cả cái diều đẹp” của cu Tị. Không chỉ vậy, trong một lần vợ hàng thịt nằng nặc đòi chồng ở lại với mình, Trương Ba đã suýt chút nữa mà nghe theo.

Sự thay đổi của Trương Ba khiến cho chính gia đình ông cũng không chấp nhận được, vợ Trương Ba chấp nhận bỏ đi để ông về sống với vợ hàng thịt. Cái Gái cháu ông thì không nhận ông, cô con dâu ngoan hiền hiểu chuyện nhất cuối cùng cũng trách cứ cha mình. Trương Ba đau khổ lắm. Không phải ông không biết những sự thay đổi đã diễn ra với mình chỉ là ông không thể làm được gì để thay đổi thực tại. Hoàn cảnh của ông đích thực là lực bất tòng tâm. Dù linh hồn của ông muốn nhưng thân xác không chịu nghe theo thì ông cũng không thể điều khiển được. Huống hồ việc ban ngày ở trong thân xác hàng thịt lâu dần khiến cho ông bị tha hóa, trở nên thô thiển, cục mịch, ngày càng giống với con người hàng thịt.

Trương Ba vô cùng đau khổ và day dứt về sự thật này nên đã gặp Đế Thích và trình bày nỗi lòng của bản thân. Có thể thấy ông là một người rất có nhân cách, lòng tự trọng. Ông đã thẳng thừng nói với Đế Thích chỉ quan tâm cho người ta sống còn sống thế nào thì Đế Thích không quan tâm. Những lời phê phán của Trương Ba rất gay gắt nhưng cũng vô cùng chính xác về Đế Thích và cách làm của ông. Trương Ba cuối cùng đau khổ lựa chọn cái chết còn hơn chấp nhận hoán đổi linh hồn mình vào một thể xác mới. Đây là một sự lựa chọn cao cả và thể hiện đúng tính cách con người ông. Ông không thể chấp nhận sự giả dối, hoán đổi, không thể sống mà trong một đằng ngoài một nẻo. Dù cho ông có được đổi sang một thân xác nào đi nữa thì đó cũng là thân xác đi mượn và rồi ông sẽ lại gặp rất nhiều rắc rối khi không được là chính mình. Cách lựa chọn này đã đưa Trương Ba trở về là chính ông dù điều đó đồng nghĩa với việc ông phải vĩnh viễn rời xa vợ con của mình.

Bi kịch của Trương Ba đã nói lên một vấn đề đó là sống nương nhờ trong thân xác của người khác. Con người phải sống là chính mình, nhất quán, đồng điệu giữa tâm hồn và thể xác không thể có chuyện linh hồn người này nhưng lại sống trong thân xác của người khác.

Cách lựa chọn giải quyết vấn đề cũng cho thấy được nhân cách cao đẹp trong con người Trương Ba, ông đã lựa chọn cái chết để được làm chính mình còn hơn cố gắng níu giữ sự sống trong khi mình dần bị tha hóa, biến đổi. Cuối cùng thì Trương Ba vẫn trở về là người chồng yêu thương vợ con, là người cha mẫu mực, người ông đáng kính trọng của tất cả con cháu trong nhà.

Thông qua đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của tác giả Lưu Quang Vũ muốn gửi tới người đọc thông điệp: Được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là mình , sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn giá trị hơn. Hy vọng với tổng hợp những bài văn mẫu trên Trangtailieu.com đã giúp cho bạn phần nào hiểu được tác phẩm cũng như tìm ra những cách viết thu hút người đọc