Docly

Phần bù là gì? Khái niệm phần bù và phần bù của hai tập hợp

Phần bù là gì? Nếu B⊂A thì A∖B được gọi là phần bù của B trong A, kí hiệu là CAB. Đây chính là khái niệm của phần bù của hai tập hợp. Cùng Trang tài liệu tìm hiểu chi tiết hơn về phần bù của hai tập hợp trong nội dung dưới đây nhé!

Phần bù là gì?

Khái niệm: Phần bù giá trị được hiểu là một trong ba nhân tố được sử dụng trong mô hình ba nhân tố Fama-French. Đây chính là tỉ lệ lợi nhuận giữa cổ phiếu giá trị và cổ phiếu tăng trưởng.

Phần bù giá trị cũng chính là tỉ lệ lợi nhuận giữa cổ phiếu giá trị và cổ phiếu tăng trưởng với quan điểm rằng các công ty có tỉ lệ sổ sách trên thị trường cao (hay là cổ phiếu giá trị) có lợi nhuận vượt trội hơn so với các cổ phiếu có giá trị thị trường thấp hơn (hay là cổ phiếu tăng trưởng).

Phần bù giá trị trong tiếng Anh là gì?

Phần bù giá trị trong tiếng Anh là High Minus Low – HML hay Value Premium.

Đặc điểm Phần bù giá trị:

Để chúng ta có thể hiểu được khái niệm phần bù giá trị sẽ cần có kiến thức cơ bản về mô hình ba nhân tố Fama-French.

Mô hình ba nhân tố Fama-French đã được thành lập vào năm 1992 bởi Eugene Fama và Kenneth French. Mô hình ba nhân tố Fama-French đã sử dụng ba nhân tố với một trong số đó là phần bù giá trị, nhằm mục đích để giải thích lợi nhuận vượt mức trong danh mục đầu tư của người quản lí danh mục.

Nền tảng của mô hình ba nhân tố Fama-French đó chính là lợi nhuận được tạo ra bởi các nhà quản lí danh mục đầu tư một phần do các nhân tố nằm ngoài sự kiểm soát của người quản lí.

Cụ thể, cổ phiếu giá trị có lịch sử lợi nhuận trung bình vượt trội hơn so với cổ phiếu tăng trưởng, và các công ty có quy mô nhỏ hơn lợi nhuận trung bình vượt trội hơn so với các công ty lớn hơn.

Phần lớn hiệu suất danh mục đầu tư có thể được giải thích bởi xu hướng quan sát được của các cổ phiếu nhỏ và cổ phiếu giá trị vượt trội so với các cổ phiếu lớn hoặc định hướng tăng trưởng trung bình.

Phần bù giá trị và các nhân tố khác:

Nhân tố thứ nhất trong mô hình ba nhân tố Fama-French là hiệu suất thị trường (trong mô hình CAPM), nhân tố thứ hai là phần bù giá trị được hiểu là sự vượt trội của các cổ phiếu giá trị, nhân tố thứ ba là sự vượt trội của các công ty nhỏ hơn hay phần bù qui mô (Small Minus Big – SMB).

Bằng cách xác định hiệu suất của người quản lí danh mục đầu tư có thể qui được cho hai nhân tố trên, người sử dụng mô hình có thể ước tính tốt hơn kĩ năng của nhà quản lí.

Trong trường hợp có nhân tố phần bù giá trị (HML), mô hình cho thấy liệu người quản lí có dựa vào phần bù giá trị bằng cách đầu tư vào các cổ phiếu có hệ số giá trị sổ sách/giá trị thị trường (Book-to-value ratio) cao để kiếm các khoản lợi nhuận bất thường hay không.

Nếu người quản lí chỉ mua cổ phiếu giá trị, kết quả hồi qui mô hình sẽ cho thấy mối tương quan dương với nhân tố phần bù giá trị HML, được giải thích rằng lợi nhuận của danh mục đầu tư được qui cho phí bảo hiểm.

Trong trường hợp này, do mô hình hồi qui có thể giải thích nhiều hơn về lợi nhuận của danh mục đầu tư nên lợi nhuận vượt quá ban đầu của người quản lí danh mục giảm xuống.

Mô hình năm nhân tố Fama – French:

Trong năm 2014, Fama và French đã chỉnh sửa mô hình của họ thành năm nhân tố.

Ngoài các điểm tương đồng như mô hình ba nhân tố, mô hình năm nhân tố Fama – French đã bổ sung các khái niệm nhân tố lợi nhuận và nhân tố đầu tư.

Nhân tố lợi nhuận đã cho rằng các công ty báo cáo thu nhập trong tương lai cao hơn sẽ có lợi nhuận cao hơn trên thị trường chứng khoán.

Nhân tố thứ năm đó chính là nhân tố đầu tư liên quan đến việc đầu tư và lợi nhuận đầu tư trong nội bộ của công ty, cho thấy các công ty đầu tư mạnh vào các dự án tăng trưởng có thể sẽ hoạt động kém trong tương lai.

Phân loại phần bù

Nếu B⊂A thì A∖B được gọi là phần bù của B trong A, kí hiệu là CAB. Đây chính là một khái niệm phần bù của tập hợp.

Phần bù gồm hai loại là: Phần bù tương đối và phần bù tuyệt đối

a. Phần bù tương đối – phần bù của a trong b

Cho A và B là các tập hợp, khi đó phần bù tương đối của A trong B, hay còn gọi là hiệu tập hợp của B và A, là tập gồm tất cả các phần tử nằm trong B, nhưng không nằm trong A.

Phần bù tương đối của A trong B:

B−A=A∩B

Phần bù tương đối của A trong B được viết là B − A (hoặc B ∩A).

Dưới dạng ký hiệu toán học:

B−A={X∈B|X∉A}

b. Phần bù tuyệt đối – phần bù của tập hợp

Phần bù của A trong U:

Ac=U−A

Cho một tập U và A là tập con của U. Khi đó phần bù của A trong U được gọi là phần bù tuyệt đối (hay đơn giản là phần bù) của A, ký hiệu là AC (hoặc đôi khi A′), nghĩa là:

AC  = U − A.

Khái niệm các thuật ngữ liên quan

Mô hình ba yếu tố Fama và French:

– Ta hiểu mô hình ba yếu tố Fama và French như sau:

Mô hình ba yếu tố Fama và French được hiểu là mô hình định giá tài sản được phát triển vào năm 1992, mở rộng mô hình định giá tài sản vốn bằng cách thêm các yếu tố rủi ro kích thước và rủi ro giá trị vào yếu tố rủi ro thị trường trong mô hình CAPM. Mô hình này xem xét khía cạnh thực tế rằng cổ phiếu giá trị và cổ phiếu vốn hóa nhỏ thường xuyên có lợi nhuận vượt trội so với thị trường. Bằng cách bao gồm hai yếu tố bổ sung này, mô hình sẽ điều chỉnh theo xu hướng vượt trội này, khiến nó trở thành một công cụ tốt hơn để đánh giá hiệu suất của người quản lí.

– Đặc điểm của mô hình ba yếu tố Fama và French:

Các chủ thể là người đoạt giải Nobel, ông Dave Fama và nhà nghiên cứu Kenneth French, cựu giáo sư tại Trường Kinh doanh Đại học Chicago, đã cố gắng đo lường lợi nhuận thị trường và qua các nghiên cứu, nhận thấy rằng cổ phiếu giá trị có mức tăng trưởng cổ phiếu vượt trội. Tương tự, các cổ phiếu vốn hóa nhỏ có xu hướng vượt trội so với các cổ phiếu vốn hóa lớn.

Theo đánh giá của mô hình ba yếu tố Fama và French, hiệu suất của danh mục đầu tư với số lượng lớn cổ phiếu vốn hóa nhỏ hoặc giá trị sẽ thấp hơn kết quả CAPM, vì mô hình ba yếu tố điều chỉnh giảm cho hiệu suất cổ phiếu vốn hóa nhỏ và cổ phiếu giá trị.

Mô hình Fama và French có ba yếu tố bao gồm: qui mô của các công ty, tỉ lệ sổ sách trên thị trường và lợi nhuận vượt mức trên thị trường. Nói cách khác, ba yếu tố được sử dụng là SMB (nhỏ trừ lớn), HML (cao trừ thấp) và lợi nhuận của danh mục đầu tư ít hơn tỉ lệ hoàn vốn phi rủi ro. SMB tính đến trường hợp các công ty giao dịch công chúng có giới hạn thị trường nhỏ tạo ra lợi nhuận cao hơn, trong khi HML tính đến trường hợp các cổ phiếu giá trị với tỉ lệ sổ sách trên thị trường cao tạo ra lợi nhuận cao hơn.

Có rất nhiều tranh luận về việc xu hướng lợi nhuận vượt trội xảy ra là do tính hiệu quả hay phi hiệu quả của thị trường. Với những người cho rằng do tính hiệu quả của thị trường, lợi nhuận vượt trội thường được giải thích bởi rủi ro vượt mức mà cổ phiếu giá trị và cổ phiếu vốn hóa nhỏ phải đối mặt do chi phí vốn cao hơn và rủi ro kinh doanh lớn hơn.

Với những người cho rằng do tính phi hiệu quả của thị trường, sự vượt trội được giải thích như sau: những người tham gia thị trường định giá không chính xác giá trị của các công ty này, điều này mang lại lợi nhuận vượt mức trong thời gian dài khi giá trị tự điều chỉnh lại. Các nhà đầu tư tin vào Giả thuyết thị trường hiệu quả (EMH) có nhiều khả năng đồng ý với phía ủng hộ xu hướng lợi nhuận vượt trội xảy ra là do tính hiệu quả của thị trường.

Hệ số giá trị sổ sách/giá trị thị trường:

-Ta hiểu về hệ số giá trị sổ sách/giá trị thị trường như sau:

Hệ số giá trị sổ sách/giá trị thị trường trong tiếng Anh là Book-To-Market Ratio.

Hệ số giá trị sổ sách/giá trị thị trường được sử dụng để tính toán giá trị của công ty bằng cách so sánh giá trị sổ sách với giá trị thị trường của nó. Giá trị sổ sách của một công ty được tính toán bằng cách xem lại giá gốc của công ty. Giá trị thị trường của một công ty được quyết định bằng giá cổ phiếu của nó trên thị trường chứng khoán và số lượng cổ phiếu đang lưu hành, đó là vốn hóa thị trường của nó.

– Nội dung về Hệ số giá trị sổ sách/giá trị thị trường:

Nếu giá trị thị trường của một công ty đang giao dịch cao hơn giá trị sổ sách trên mỗi cổ phiếu thì nó được coi là được định giá cao. Nếu giá trị sổ sách cao hơn giá trị thị trường, các chủ thể là các nhà phân tích coi công ty bị định giá thấp. Để so sánh giá trị tài sản ròng của công ty hoặc giá trị sổ sách với giá trị hiện tại hoặc thị trường của công ty, ta sử dụng hệ số giá trị sổ sách/ giá trị thị trường.

Giá trị sổ sách của một công ty được hiểu là giá gốc được tính từ bảng cân đối kế toán của công ty. Giá trị sổ sách cũng có thể được tính bằng cách trừ đi khoản nợ phải trả, cổ phiếu ưu đãi và tài sản vô hình khỏi tổng tài sản. Trên thực tế, giá trị sổ sách thể hiện số tài sản còn lại nếu công ty rời khỏi thị trường ngày hôm nay. Một số nhà phân tích sử dụng vốn cổ đông trên bảng cân đối kế toán làm giá trị sổ sách.

Giá trị thị trường của một công ty giao dịch công khai sẽ được xác định bằng cách tính giá trị vốn hóa thị trường của nó, đơn giản là lấy tổng số cổ phiếu đang lưu hành nhân với giá cổ phiếu hiện tại. Giá trị thị trường là giá mà các nhà đầu tư sẵn sàng trả để mua hoặc bán cổ phiếu trên thị trường thứ cấp. Vì nó được xác định bởi cung và cầu trên thị trường nên không phải lúc nào cũng đại diện cho giá trị thực tế của một công ty