Docly

Hướng dẫn soạn bài Cô Bé Bán Diêm | Ngữ văn 8

Trong chương trình môn Ngữ văn lớp 8, truyện Cô bé bán diêm của tác giả An-đéc-xen được đưa vào học để tìm hiểu. Tác phẩm này đã thể hiện tình cảm thương cảm của nhà văn đối với những số phận bất hạnh giống như cô bé trong câu chuyện. Đồng thời, nó cũng là một lời tố cáo về xã hội hiện đại, khi con người trở nên lạnh lùng và vô cảm.

Hãy cùng Trangtailieu.com tham khảo soạn bài Cô Bé Bán Diêm chi tiết dưới đây. Hy vọng các em sớm chuẩn bị được bài soạn và nắm được những kiến thức quan trọng trong tác phẩm.

soạn bài cô bé bán diêm

Tóm tắt Cô Bé Bán Diêm

Đêm giao thừa, trời rét mướt. Một cô bé bán diêm nghèo, mồ côi mẹ, đầu trần, chân đất, bụng đói dò dẫm đi trong bóng tối. Em không dám về nhà vì sợ bố đánh, vì em không bán được que diêm nào. Ngồi nép một góc tường, em quẹt một que diêm sưởi ấm. Quẹt que diêm đầu tiên, em tưởng như ngồi trước lò sưởi, vừa duỗi chân ra sưởi thì diêm vụt tắt. Que diêm thứ hai, em thấy bàn ăn thịnh soạn…rồi diêm vụt tắt. Que diêm thứ ba thấy cây thông Nô-en, em với tay về phía cây… diêm tắt. Que diêm thứ tư, thật kì diệu, em nhìn thấy người bà hiền hậu độc nhất với em, nhưng bà đã chết từ lâu. Rồi diêm vụt tắt, em quẹt hết cả bao diêm để níu bà. Rồi em cùng bà bay lên cao. Sáng hôm sau, người ta đã thấy một cô bé bán diêm chết vì giá rét, má hồng và đôi môi mỉm cười.

Bố cục tác phẩm Cô Bé Bán Diêm:

Phần 1 (từ đầu…cứng đờ ra) : cô bé bán diêm trong đêm giao thừa.

Phần 2 (tiếp…chầu thượng đế) : Thực tế và mộng tưởng.

Phần 3 (còn lại): cái chết thương tâm của cô bé bán diêm.

Soạn bài Cô Bé Bán Diêm – Mẫu 1

Câu 1 (trang 68 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):

   Chia phần 2 của văn bản thành những đoạn nhỏ căn cứ vào từng lần quẹt diêm:

   – Lần 1: hiện lên chiếc lò sưởi.

   – Lần 2: hiện lên bàn ăn thịnh soạn.

   – Lần 3: hiện lên cây thông Nô-en.

   – Lần 4: em được gặp bà.

Câu 2 (trang 68 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):

   – Gia cảnh: cô bé bán diêm nghèo, mồ côi mẹ, bà nội đã qua đời, em sống với người bố khó tính luôn mắng nhiếc, đánh đập.

   – Thời gian: đêm giao thừa. Không gian: mọi nhà sáng đèn, ngỗng quay, ngoài đường tối tăm, lạnh lẽo.

   * Những hình ảnh tương phản được sử dụng khắc hạ nỗi khổ cực của cô bé:

   – Ngôi nhà đẹp đẽ trước kia em sống >< xó tối tăm trên gác sát mái nhà.

   – Mọi nhà rực ánh đèn, mùi ngỗng quay >< em bé đói rét, dò dẫm trong đêm tối.

Câu 3 (trang 68 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):

Những mộng tưởng của cô bé qua các lần quẹt diêm diễn ra theo thứ tự hợp lí, phù hợp với hoàn cảnh thực tế và tâm lí em bé: Lạnh (lò sưởi) → đói (bàn ăn) → ao ước đêm giao thừa (cây thông Nô-en) → cô đơn, khổ cực (nhớ đến người bà hiền hậu). Trong đó, có điều thứ 4 (em gặp bà) thuần túy là mộng tưởng.

Câu 4 (trang 68 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):

   – Truyện Cô bé bán diêm mang tính nhân đạo sâu sắc về những mảnh đời bất hạnh.

   – Đoạn kết của truyện:

       + Là một bi kịch đau thương, cái chết một cô bé trong cô đơn giá lạnh, trong đói khát, trong đêm giao thừa, một cái chết đầy xót xa.

       + Nhìn một mặt khác, “đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười” , cái chết của sự giải thoát, em cùng bà về chầu Thượng đế, em đi vào cõi bất tử cùng người bà hiền hậu độc nhất với em.

Soạn bài Cô Bé Bán Diêm – Mẫu 2

I. Tác giả

– An-đéc-xen (1805 – 1875) là nhà văn người Đan Mạch nổi tiếng với loại truyện kể cho trẻ em.

– Nhiều truyện của ông được biên soạn lại từ những truyện cổ tích, nhưng cũng có những truyện do ông sáng tạo ra.

– Một số tác phẩm quen thuộc như: Cô bé bán diêm, Bầy chim thiên nga, Nàng tiên cá, Bộ quần áo mới của hoàng đế, Nàng công chúa và hạt đậu…

II. Tác phẩm

1. Hoàn cảnh sáng tác

Truyện được xuất bản lần đầu tiên năm 1848 trong phần năm của quyển Nye Eventyr (Những truyện cổ tích mới) với nhan đề Den Lille Pige Med Svovlstikkerne (Cô gái bé nhỏ với những que diêm).

2. Bố cục

Gồm 3 phần:

  • Phần 1: Từ đầu đến “Lúc này đôi bàn tay em đã cứng đờ ra”. Hình ảnh cô bé bán diêm trong đêm giao thừa.
  • Phần 2. Tiếp theo đến “Họ đã về chầu thượng đế”. Các lần em bé quẹt que diêm và mộng tưởng thành sự thật.
  • Phần 3. Còn lại. Cái chết thương tâm của cô bé bán diêm.

3. Tóm tắt

Trong đêm giao thừa rét mướt, một cô bé đầu trần, chân đi đất, bụng đói nhưng phải đi bán diêm. Cô bé ấy đã mồ côi mẹ và ngay cả bà nội – người yêu thương em nhất cũng đã qua đời. Em không dám về nhà vì sợ bố sẽ đánh em. Vừa lạnh vừa đói, cô bé ngồi nép vào một góc tường rồi khẽ quẹt một que diêm để sưởi ấm. Que diêm thứ nhất cho em có cảm giác ấm áp như ngồi bên lò sưởi. Em vội quẹt que diêm thứ hai, một bàn ăn thịnh soạn hiện lên. Đến quẹt que diêm thứ ba thì một cây thông Noel. Quẹt que diêm thứ tư được thắp lên, lần này là bà nội với khuôn mặt hiền từ hiện ra. Những ảo ảnh đó nhanh chóng tan đi sau sự vụt tắt của que diêm. Em vội vàng quẹt hết cả bao diêm để mong níu bà nội lại. Cuối cùng, cô bé bán diêm đã chết rét trong đêm giao thừa lạnh giá.

III. Đọc – hiểu văn bản

1. Hình ảnh cô bé bán diêm trong đêm giao thừa

– Hoàn cảnh:

  • Mẹ mất, bà nội – người yêu thương nhất cũng vừa mới qua đời.
  • Phải sống với người bố và bị bắt đi bán diêm để kiếm tiền.

– Thời điểm bán diêm: Đêm giao thừa rét mướt.

– Không gian bán diêm: Cửa sổ của các nhà đều sáng rực, trong phố sực nức mùi ngỗng quay.

– Hình ảnh cô bé bán diêm:

  • Ngồi nép vào một góc tường, giữa hai ngôi nhà.
  • Nghĩ đến nếu không bán được diêm mà trở về nhà sẽ bị bố đánh.
  • Thu đôi chân cho đỡ lạnh nhưng càng lúc càng rét buốt hơn.
  • Đôi bàn tay cứng đờ ra vì lạnh giá.

=> Sự nghèo khổ thiếu thốn không chỉ về vật chất mà còn là về tinh thần, thiếu đi tình yêu được bao bọc của những người thân trong gia đình.

2. Các lần em bé quẹt que diêm và tưởng tượng thành sự thật

Cô bé đã trải qua 4 lần quẹt diêm với những tưởng tượng lần lượt xuất hiện:

– Lần thứ nhất: Mơ ước có lò sưởi – mong muốn lúc này có được sự ấm áp.

– Lần thứ hai: Mơ ước căn phòng có bàn ăn, trên bàn có ngỗng quay – mong muốn được no bụng.

– Lần thứ ba: Mơ ước có cây thông Noel – mong muốn được đón giao thừa như mọi người.

– Lần thứ tư: Mơ ước được gặp lại bà – mong muốn được che chở, yêu thương.

– Lần cuối cùng: Quẹt toàn bộ số diêm còn lại – để gặp lại bà và đi theo bà đến nơi hạnh phúc.

=> Những mong muốn của cô bé là hoàn toàn chính đáng.

3. Cái chết thương tâm của cô bé bán diêm

– Thời gian: sáng sớm hôm sau

– Không gian: ở một xó tường lạnh lẽo

– Hình ảnh: Một cô bé có đôi má hồng, đôi môi đang mỉm cười nhưng em đã chết cóng.

– Lý do: Không có ai quan tâm, giúp đỡ. Gia đình thì ghẻ lạnh, thờ ơ.

Soạn bài Cô Bé Bán Diêm – Mẫu 3

Câu 1. Hãy xác định ba phần (chỗ bắt đầu, chỗ kết thúc từng phần) của bài này nếu lấy việc em bé quẹt từng que diêm làm phần trọng tâm. Căn cứ vào đâu để có thể chia phần thứ hai (phần trọng tâm) thành những đoạn nhỏ hơn?

* Bố cục:

– Phần 1: Từ đầu đến “Lúc này đôi bàn tay em đã cứng đờ ra”. Hình ảnh cô bé bán diêm trong đêm giao thừa.

– Phần 2. Tiếp theo đến “Họ đã về chầu Thượng đế”. Các lần em bé quẹt que diêm và mộng tưởng thành sự thật.

  • Lần quẹt diêm thứ nhất: Từ “Chà!” đến “thì khoái biết bao”
  • Lần quẹt diêm thứ hai: Tiếp theo đến “tiến về phía em bé”
  • Lần quẹt thứ ba: Tiếp theo đến “bay lên trời với Thượng đế”
  • Lần quẹt thứ tư: Tiếp theo đến “cũng biến mất”
  • Lần quẹt cuối cùng: Tiếp theo đến “Họ đã về chầu Thượng đế”

– Phần 3. Còn lại. Cái chết thương tâm của cô bé bán diêm.

* Căn cứ vào các lần quẹt diêm để chia phần thứ hai thành những đoạn nhỏ hơn.

Câu 2. Trong phần đầu, nhà văn đã tạo dựng hoàn cảnh (gia đình, cuộc sống) và bối cảnh (thời gian, không gian) của em bé bán diêm như thế nào? Những hình ảnh tương phản (đối lập, đặt gần nhau, làm nổi bật lẫn nhau) ở đây được thế hiện ra sao và nhằm mục đích nghệ thuật cụ thể gì?

* Hoàn cảnh và bối cảnh của em bé bán diêm:

– Hoàn cảnh:

  • Mẹ mất, bà nội – người yêu thương nhất cũng vừa mới qua đời.
  • Phải sống với người bố và bị bắt đi bán diêm để kiếm tiền.

– Bối cảnh:

  • Thời điểm bán diêm: Đêm giao thừa rét mướt.
  • Không gian bán diêm: Cửa sổ của các nhà đều sáng rực, trong phố sực nức mùi ngỗng quay.

* Những hình ảnh đối lập tương phản được thể hiện:

– “Ngoài đường phố lạnh buốt và tối đen” – “cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn”.

– Trong phố sực nức mùi ngỗng quay” – “cô bé cả ngày chưa ăn gì, bụng đói”.

=> Qua những hình ảnh trên làm nổi bật hoàn cảnh đáng thương của cô bé bán diêm.

Câu 3. Các mộng tưởng của em bé qua các lần quẹt diêm (lò sưởi, bàn ăn, cây thông Noel , người bà, hai bà cháu bay đi) diễn ra lần lượt có hợp lý không? Vì sao? Trong các mộng tưởng ấy, diều nào gắn với thực tế, điều nào thuần túy chỉ là tưởng tượng?

– Các mộng tưởng diễn ra lần lượt hợp lý với thực tế: nhu cầu của cô bé.

– Lý do: Thỏa mãn từ nhu cầu vật chất đến tinh thần.

  • Trời đang giá rét – mong muốn có lò sưởi
  • Đói bụng – mong muốn có ngỗng quay
  • Khao khát sum vầy bên gia đình – mong muốn cây thông noel
  • Khao khát được yêu thương – mong muốn bà xuất hiện

– Điều gắn với thực tế là: lò sửa, ngỗng quay, cây thông – đều có thật trong hiện tại.

– Điều mộng tưởng: người bà xuất hiện đem em đi đến nơi hạnh phúc – không thể xảy ra vì bà đã mất.

Câu 4. Phát biểu những cảm nghĩ của mình về truyện “Cô bé bán diêm” (trích), nói chung và về đoạn kết của truyện nói riêng.

– Cảm nghĩ về câu chuyện: Đây là một câu chuyện giàu ý nghĩa nhân văn: Trước hết Cô bé bán diêm thể hiện lòng thương xót đối với những số phận bất hạnh như cô bé. Sau đó, truyện lên tiếng phê phán một xã hội vô cảm, dần mất đi tình thương yêu đồng loại.

– Cảm nghĩ về đoạn kết: Hình ảnh cô bé chết nhưng vẫn mỉm cười – nụ cười khi được đoàn tụ với bà được tác giả tưởng tượng nhằm giảm bớt nỗi đau cho câu chuyện. Cái kết này đã phản ánh được ước mơ về một cuộc sống hạnh phúc của con người.

Soạn bài Cô Bé Bán Diêm – Mẫu 4

Câu 1. Hãy xác định ba phần (chỗ bắt đầu, chỗ kết thúc từng phần) của bài này nếu lấy việc em bé quẹt từng que diêm làm phần trọng tâm. Căn cứ vào đâu để có thể chia phần thứ hai (phần trọng tâm) thành những đoạn nhỏ hơn?

– Phần 1. Từ đầu đến “Lúc này đôi bàn tay em đã cứng đờ ra”: Hình ảnh cô bé bán diêm trong đêm giao thừa.

– Phần 2. Tiếp theo đến “Họ đã về chầu Thượng đế”: Các lần em bé quẹt que diêm và mộng tưởng thành sự thật.

  • Lần quẹt diêm thứ nhất: Từ “Chà!” đến “thì khoái biết bao”
  • Lần quẹt diêm thứ hai: Tiếp theo đến “tiến về phía em bé”
  • Lần quẹt thứ ba: Tiếp theo đến “bay lên trời với Thượng đế”
  • Lần quẹt thứ tư: Tiếp theo đến “cũng biến mất”
  • Lần quẹt cuối cùng: Tiếp theo đến “Họ đã về chầu Thượng đế”

– Phần 3. Còn lại: Cái chết thương tâm của cô bé bán diêm.

=> Việc chia phần phần thứ hai (phần trọng tâm) thành những đoạn nhỏ hơn dựa vào chi tiết về các lần quẹt diêm.

Câu 2. Trong phần đầu, nhà văn đã tạo dựng hoàn cảnh (gia đình, cuộc sống) và bối cảnh (thời gian, không gian) của em bé bán diêm như thế nào? Những hình ảnh tương phản (đối lập, đặt gần nhau, làm nổi bật lẫn nhau) ở đây được thế hiện ra sao và nhằm mục đích nghệ thuật cụ thể gì?

– Hoàn cảnh:

  • Mẹ mất, bà nội – người yêu thương nhất cũng vừa mới qua đời.
  • Phải sống với người bố và bị bắt đi bán diêm để kiếm tiền.

– Bối cảnh:

  • Thời điểm bán diêm: Đêm giao thừa rét mướt.
  • Không gian bán diêm: Cửa sổ của các nhà đều sáng rực, trong phố sực nức mùi ngỗng quay.

– Những hình ảnh đối lập tương phản được thể hiện:

  • “Ngoài đường phố lạnh buốt và tối đen” – “cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn”.
  • Trong phố sực nức mùi ngỗng quay” – “cô bé cả ngày chưa ăn gì, bụng đói”.

=> Các hình ảnh đối lập hiện lên cho thấy được cuộc sống nghèo khổ, đáng thương của cô bé bán diêm.

Câu 3. Các mộng tưởng của em bé qua các lần quẹt diêm (lò sưởi, bàn ăn, cây thông Noel, người bà, hai bà cháu bay đi) diễn ra lần lượt có hợp lý không? Vì sao? Trong các mộng tưởng ấy, diều nào gắn với thực tế, điều nào thuần túy chỉ là tưởng tượng?

– Các mộng tưởng diễn ra phù hợp với hoàn cảnh, nhu cầu của cô bé bán diêm.

– Lý do: Thỏa mãn từ nhu cầu vật chất đến tinh thần (cô bé đang đói bụng, cảm thấy lạnh, nhớ bà).

  • Trời đang giá rét – mong muốn có lò sưởi
  • Đói bụng – mong muốn có ngỗng quay
  • Khao khát sum vầy bên gia đình – mong muốn cây thông noel
  • Khao khát được yêu thương – mong muốn bà xuất hiện

– Điều gắn với thực tế là: lò sửa, ngỗng quay, cây thông – đều có thật trong hiện tại.

– Điều mộng tưởng: người bà xuất hiện đem em đi đến nơi hạnh phúc – không thể xảy ra vì bà đã mất.

Câu 4. Phát biểu những cảm nghĩ của mình về truyện “Cô bé bán diêm” (trích), nói chung và về đoạn kết của truyện nói riêng.

– Cảm nghĩ về câu chuyện: Cô bé bán diêm thể hiện lòng thương xót đối với những số phận bất hạnh như cô bé. Sau đó, tác giả đã lên tiếng phê phán một xã hội vô cảm, dần mất đi tình thương yêu đồng loại. Tác phẩm đã đem đến cho người đọc bài học giàu giá trị nhân văn sâu sắc.

– Cảm nghĩ về đoạn kết: Có thể coi đây là một kết thúc có hậu với cô bé bán diêm. Tuy cô bé đã chết nhưng trên miệng vẫn nở một nụ cười – nụ cười khi được đoàn tụ với bà được tác giả tưởng tượng nhằm giảm bớt nỗi đau cho câu chuyện. Cái kết này đã phản ánh được ước mơ về một cuộc sống hạnh phúc của con người.

Soạn bài Cô Bé Bán Diêm – Mẫu 4

Câu 1. Hãy xác định ba phần (chỗ bắt đầu, chỗ kết thúc từng phần) của bài này nếu lấy việc em bé quẹt từng que diêm làm phần trọng tâm. Căn cứ vào đâu để có thể chia phần thứ hai (phần trọng tâm) thành những đoạn nhỏ hơn?- Ba phần gồm có:

  • Phần 1: Từ đầu đến “Lúc này đôi bàn tay em đã cứng đờ ra”: Hình ảnh cô bé bán diêm trong đêm giao thừa.
  • Phần 2. Tiếp theo đến “Họ đã về chầu Thượng đế”: Các lần em bé quẹt que diêm và mộng tưởng thành sự thật.
  • Phần 3. Còn lại: Cái chết thương tâm của cô bé bán diêm.

– Căn cứ vào: Các lần quẹt diêm của cô bé.

Câu 2. Trong phần đầu, nhà văn đã tạo dựng hoàn cảnh (gia đình, cuộc sống) và bối cảnh (thời gian, không gian) của em bé bán diêm như thế nào? Những hình ảnh tương phản (đối lập, đặt gần nhau, làm nổi bật lẫn nhau) ở đây được thế hiện ra sao và nhằm mục đích nghệ thuật cụ thể gì?

– Hoàn cảnh của em bé bán diêm: Nhà nghèo, mồ côi mẹ, bà nội vừa qua đời và phải sống với người bố và bị bắt đi bán diêm để kiếm tiền.

– Bối cảnh: Vào một đêm giao thừa rét mướt, cửa sổ của mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay.

– Mục đích của những hình ảnh đối lập nhằm làm nổi bật hoàn cảnh đáng thương, bất hạnh của cô bé bán diêm.

Câu 3. Các mộng tưởng của em bé qua các lần quẹt diêm (lò sưởi, bàn ăn, cây thông Noel, người bà, hai bà cháu bay đi) diễn ra lần lượt có hợp lý không? Vì sao? Trong các mộng tưởng ấy, diều nào gắn với thực tế, điều nào thuần túy chỉ là tưởng tượng?

– Các mộng tưởng của em bé qua các lần quẹt diêm (lò sưởi, bàn ăn, cây thông Noel, người bà, hai bà cháu bay đi) diễn ra hợp lí.

– Nguyên nhân: Phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh của cô bé.

  • Trời đang giá rét – mong muốn có lò sưởi
  • Đói bụng – mong muốn có ngỗng quay
  • Khao khát sum vầy bên gia đình – mong muốn cây thông noel
  • Khao khát được yêu thương – mong muốn bà xuất hiện

– Điều gắn với thực tế là: lò sửa, ngỗng quay, cây thông – đều có thật trong hiện tại.

– Điều mộng tưởng: người bà xuất hiện đem em đi đến nơi hạnh phúc – không thể xảy ra vì bà đã mất.

Câu 4. Phát biểu những cảm nghĩ của mình về truyện “Cô bé bán diêm” (trích), nói chung và về đoạn kết của truyện nói riêng.

– Cảm nghĩ về câu chuyện:

Câu chuyện có giá trị nhân văn sâu sắc. Tác giả thể hiện sự đồng cảm với số phận bất hạnh của cô bé bán diêm. Từ đó, truyện lên tiếng phê phán một xã hội vô cảm, dần mất đi tình thương yêu đồng loại.

– Cảm nghĩ về đoạn kết:

Đoạn kết của truyện được coi là một kết thúc có hậu. Dù cô bé bán diêm đã chết nhưng trên môi vẫn nở một nụ cười, khi được đoàn tụ với bà được tác giả tưởng tượng nhằm giảm bớt nỗi đau cho câu chuyện. Cái kết này đã phản ánh được ước mơ về một cuộc sống hạnh phúc của con người.

Nếu thấy tài liệu học tập trên hữu ích bạn đừng quên theo dõi Trangtailieu.com để cập nhật thêm nhiều tài liệu hấp dẫn khác.