Docly

#10 bài văn lớp 8 nghị luận xã hội về đề văn học và tình thương

Văn học nuôi dưỡng và phát triển tâm hồn của con người sẽ giúp con người hoàn thiện nhân cách và đạo đức hơn. Với 10+  bài Nghị luận xã hội về dạng đề đề Văn học và tình thương, kèm theo một số dàn ý chi tiết, sẽ giúp các em hiểu sâu sắc hơn và hoàn thiện bài viết của mình một cách tốt nhất.

văn học và tình thương

Dàn bài văn học và tình thương chi tiết 

Dàn ý Văn học và tình thương mẫu 1

1) Mở bài:

Giới thiệu sơ lược vấn đề nghị luận.

2) Thân bài:

– Mối quan hệ giữa văn chương và tình thương.

– Các truyện thường tán dương, trân trọng những con người biết “thương người như thể thương thân”, giàu lòng yêu thương và nhân ái:

+ Tình yêu với những người thân.

+ Tình yêu với những gì gần gũi, bình dị xung quanh.

+ Tình yêu quê nhà đất nước…

(Mỗi ý đều có dẫn chứng, lập luận, chứng minh.)

– Các câu chuyện cũng luôn lên án, chỉ trích những kẻ sống thiếu tình thương. (Tương tự như ở phần trên, lấy dẫn chứng, phân tích, chứng minh.)

3) Kết bài:

Vai trò của các tác phẩm văn học văn học trong việc bồi đắp tình yêu thương trong tâm hồn mỗi người.

Dàn ý nghị luận xã hội: Văn học và tình thương mẫu 2

1) Mở bài

Lòng nhân ái, tình yêu thương giữa con người với con người là đạo lí của dân tộc ta và nhiều dân tộc khác trên thế giới.

văn học, với chức năng cao cả của nó, luôn luôn ngợi ca những tấm lòng nhân ái “thương người như thể thương thân”, đồng thời cũng lên án những kẻ thờ ơ, dửng dưng hoặc nhẫn tâm chà đạp lên số phận con người.

2) Thân bài

a) Mối quan hệ giữa văn chương và tình thương

Theo Hoài Thanh (ý nghĩa văn chương) thì nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người…)

Các tác phẩm văn học văn chương thường khơi gợi tình thương và lòng nhân ái của con người…).

b) văn chương tán dương lòng nhân ái

– Trước hết là những tình cảm ruột thịt trong mỗi gia đình:

Cha mẹ yêu thương, hết lòng, hi sinh vì con cái.

Con cái hiếu thảo, yêu thương, kính trọng cha mẹ.

Anh chị em ruột thịt yêu thương, đùm bọc nhau.

(Dẫn chứng):

+ Người mẹ trong Cổng trường mở ra, Mẹ tôi…

+ Người cha trong Lão Hạc, Mẹ tôi…

+ Hai anh em Thành – Thủy trong (Cuộc chia tay của những con búp bê).

– Tình làng nghĩa xóm.

(Dẫn chứng: Ông giáo với lão Hạc, bà lão láng giềng với gia đình chị Dậu…)

– Tình đồng nghiệp, bạn bè, thầy trò…

(Dẫn chứng: 3 nhân vật họa sĩ trong Chiếc lá cuối cùng, cô giáo và các bạn của Thủy trong Cuộc chia tay của những con búp bê…).

c) văn học phản đối những kẻ thờ ơ hoặc nhẫn tâm chà đạp lên số phận con người

– Những kẻ thiếu tình thương ngay trong gia đình.

(Dẫn chứng: Bà cô bé Hồng trong Trong lòng mẹ, ông bố nghiện ngập trong Cô bé bán diêm..).

– Những kẻ lạnh lùng, độc ác ngoài xã hội.

(Dẫn chứng: Vợ chồng nghị Quế trong Tắt đèn, những người qua đường đêm giao thừa trong Cô bé bán diêm..).

3) Kết bài

Liên hệ thực tế và mong ước của em.

Dàn ý Văn học và tình thương 3

1) Mở bài

Giới thiệu truyền thống đạo lý “lá lành đùm lá rách của dân tộc việt nam”.

2) Thân bài

a)Tình thương thể hiện qua các loại hình văn học dân gian qua các câu tục ngữ-ca dao mà ông cha ta đã thực hiện và dạy cho thế hệ sau này.

b)Văn học hiện đại – ý nghĩa văn chương của Hoài Thanh,

Dẫn chứng: Qua các tác phẩm văn học đã học, tình thương đã cảm hóa được tất cả mọi đối tượng.

c)Trong đời sống đời thường

Đảng chính phủ kêu gọi mọi người chung tay góp sức, giúp đỡ những người có cuộc sống khổ đau quanh ta để họ có thêm sự tin tưởng trong cuộc sống qua các phong trào.

– Ngôi nhà mơ ước; nhà tình thương

– Vượt lên chính mình

3) Kết bài

Khẳng định vấn đề, suy xét và hành động của bản thân.

Top 10+ bài Nghị luận xã hội: Văn học và tình thương

Nghị luận xã hội: Văn học và tình thương mẫu 1

văn chương không chỉ là sản phẩm thi ca mà còn hàm chứa ở trong đó những nét đẹp văn hóa của mỗi dân tộc. Dân tộc việt nam là dân tộc giàu tình yêu thương và lòng nhân ái, tình yêu thương ấy luôn được gửi gắm chân thật, cảm động trong các tác phẩm văn học. văn chương gắn liền với tình thương.

Trong suốt hành trình hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, tình yêu thương luôn là tình cảm xuyên suốt. văn chương quốc gia là món ăn ý chí, sản phẩm kết tinh của con người Việt. Đồng hành cùng lịch sử nước nhà nên văn học luôn phản ánh những nét đẹp tinh thần của niên đại. Tình yêu thương chính là một trong những tình cảm chủ yếu, là nguồn cảm hứng của văn chương từ bao đời nay.

kể đến văn chương việt nam, không thể không nhắc văn chương dân gian – bộ phận văn học tiêu biểu của văn hóa dân tộc. Tình yêu thương được phản ảnh đầu tiên và sâu sắc trong văn chương dân gian đó. Những câu ca dao, tục ngữ, những lời hát chứa chan tình yêu thương được lưu giữ bằng hình thức truyền miệng từ đời này qua đời khác, trở thành câu nói mà trái tim con người quốc gia luôn ghi nhớ. giản dị là tình yêu thương trong gia đình, tình mẫu tử, tình phụ tử thiết tha, sâu nặng như:

“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”

Hay tình thương cho những bác nông dân – con người âm thầm lặng lẽ, một nắng hai sương làm ra hạt gạo trắng ngần:

“Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”

Và tình thương bao la, rộng lớn hơn giữa những người không chút máu mủ, ruột thịt nhưng cùng một đất nước, dân tộc, cùng sống ở trên đời:

“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
“Thương người như thể thương thân”

Những câu hát ngọt ngào ấy đã trở thành tuổi ấu thơ của bao thế hệ, bồi đắp tình cảm cho con người ngay từ những ngày tấm bé, để mai sau lớn lên biết trân trọng và biết yêu thương nhiều hơn.

Không chỉ có vậy, những truyện cổ tích, truyền thuyết cũng gửi gắm bao tình thương chân thật xúc động. Đó là tình thương cho những nhân tố đau khổ nhưng mạnh mẽ, nhân hậu như Thạch Sanh, anh Khoai, cô Tấm. Đồng thời nghiêm khắc phê bình những con người thờ ơ, dửng dưng trước những người gặp hoạn nạn, hay thậm chí độc ác nhẫn tâm, làm hại người khác như mẹ con Lý Thông, mẹ con Cám…

văn học phát triển theo từng quá trình của con người, dễ dàng đi sâu vào phản ánh nội tâm sâu sắc của con người, tình thương gửi gắm vào đó cũng ngày càng sâu sắc hơn. Dưới ngôn từ văn chương hiện đại nhạy cảm như Nguyên Hồng, Khánh Hoài, ta đã được cảm nhận những câu chuyện đầy tình thương cho những đứa trẻ. Hồi kí “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồng kể một truyện về cậu bé Hồng thiếu thốn tình thương nhưng vô cùng ngây thơ, ngây thơ. mặc kệ những lời nói cay nghiệt của bà cô bên nội, Hồng vẫn giữ trọn sự kính trọng và tình yêu cho mẹ của mình. Cảm giác hạnh phúc đến vô bờ khi ngồi trong lòng mẹ được mẹ ôm ấp quan tâm, được ngắm nhìn dung mạo thân yêu của người mẹ,… Của Hồng được gợi lại chân thực và xúc động đã khiến mỗi con người lặng lẽ dõi về nguồn cội, về tình mẫu tử trang nghiêm, quý giá. Tập hồi kí đã lắng đọng trong trái tim người đọc tình thương, sự đồng điệu của trái tim người cầm bút cho nhân tố và niềm yêu thương, sẻ chia với những cuộc đời đắng cay, đau buồn.

“Cuộc chia tay của những con búp bê” – Khánh Hoài cũng khiến bao người rơi lệ vì truyện cảm động của hai anh em Thành, Thủy vì bố mẹ ly hôn, vì bi kịch của người lớn mà phải chia xa. Tình thương của Khánh Hoài cho hai đứa trẻ và tình cảm anh em thơ ngây của Thành, Thủy chính là bức tranh trung thực nhất về thứ tình cảm gia đình vô giá.

Trong kho tàng văn học rộng lớn của dân tộc còn biết bao tác phẩm chứa đựng tình thương khác. Tất cả đều nâng niu và trân trọng những số phận kém may mắn, tình cảm đáng quý trong cuộc đời và lên án những trái tim ích kỷ, thờ ơ với nỗi đau, sự đau khổ của con người. văn học chính là những tác phẩm văn học về cuộc đời trung thực, rung động về tình thương, về con người. Hãy trân trọng và tiếp thu nét xinh đẹp đáng quý đó.

Nghị luận xã hội: Văn học và tình thương mẫu 2

Văn học nghệ thuật là thứ chỉ có trong đời sống văn hóa ý chí của con người, nó mang đến những tác động nhất định đến tâm tư, tình cảm và nhận thức của con người. Con người chúng ta luôn sống bằng tình thương và đề cao lòng nhân ái, giữa văn chương và con người có sự liên kết chính nhờ tình thương ấy. Trong bản thân văn chương và tình thương của con người tồn tại mối quan hệ sâu đậm, gắn bó mật thiết với nhau.

Văn chương nói chung được hiểu là một bộ môn nghệ thuật sử dụng ngôn từ, khung cảnh bằng nhiều phương thức khác nhau để bộc lộ quan điểm, tư tưởng, tình cảm của người viết. Những truyện là những văn bản mang ý nghĩa giá trị về trí tuệ, lý tưởng, triết lý cao, hoặc có thể mang lại sự đồng cảm trong suy tính và nhận thức. Tình thương là một trong những khía cạnh tình cảm của con người, biểu hiện của sự giao cảm giữa con người với con người và con người với thế giới xung quanh. Tình thương được biểu hiện trên nhiều góc độ khác nhau, có thể là lòng đồng cảm, tiếc nuối, có thể là ngợi ca và trân trọng hay thậm chí là tiếng nói phản đối, lên án. Giữa văn học và tình thương tồn tại mối quan hệ tương hỗ và gắn bó mật thiết với nhau.

Trước hết, tình thương chính là mục tiêu cuối cùng mà văn chương hướng đến, văn học dù ở trên khía cạnh nào, được bộc lộ bằng cách nào cũng chỉ hướng đến tình thương của con người. Bởi một câu chuyện chân chính là phải hướng đến con người, phục vụ đời sống tình cảm của con người. văn học được xem như một đặc trưng của tính nhân văn, nhân đạo của con người, không chỉ mang đến sự đồng cảm, thấu hiểu và sẻ chia với nỗi thương xót, bất công và mất mát của con người mà còn đi tới những góc khuất trong đời sống tình cảm của họ để san sẻ. Giống như Ngô Tất Tố với những kiếp người như chị Dậu trong “Tắt đèn”, chị em Liên trong “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam, hay Thúy Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du…

Văn học còn là những bài ca, tiếng nói tán dương về tình thương, những nhân cách cao xinh xắn của con người, vẻ xinh xắn giá trị và trân trọng tình cảm của con người. Ví dụ như ca ngợi về vẻ xinh đẹp người phụ nữ việt nam có “Thương vợ” của Tú Xương, ca ngợi lý tưởng nhân đạo như “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi… phê phán và lên án những mặt tối trong xã hội cũng chính là thể hiện tình thương của văn chương, thông qua văn chương những khuất tất, mặt trái của xã hội được phơi bày ra ánh sáng (Lão Hạc, Tắt đèn…), những thói hư tật xấu, tệ nạn xã hội được lên án mạnh mẽ (Hạnh phúc của một tang gia, Những ngày thơ ấu…), ngay cả việc lên án chế độ xã hội các quyền lực chèn ép quyền sống con người cũng được triệt để qua văn chương (Truyện Kiều, Chí Phèo…). Tình thương lại chính là nguồn cảm hứng vô tận cho văn chương, bởi trong mọi tình thế tâm lý và hoàn cảnh xã hội, tình thương của con người vẫn luôn tồn tại. văn chương ra đời để truyền đạt tình thương và bảo vệ những giá trị tình thương của con người, mọi khía cạnh của tình thương đều được văn chương khai thác triệt để để có thể gắn kết con người, đưa con người gần lại với nhau và thấu hiểu nhau hơn.

Có thể khẳng định mối quan hệ giữa văn chương và tình thương là một mối quan hệ gắn bó chặt chẽ không thể tách rời, trên cơ sở tình thương văn học ngày càng phát triển đa dạng cả về chiều rộng và chiều sâu, tình thương của con người nhờ có văn chương mà ngày càng sâu đậm và vươn tới những giá trị cao cả.

Nghị luận xã hội: Văn học và tình thương mẫu 3

M.Gooc-ki đã nói “Văn học là nhân học”. Đối tượng mà văn học hướng đến là con người với “chữ người được viết hoa”. Có nghĩa là, văn học hướng về, đề cao, ca ngợi và bồi đắp “chữ người viết hoa” ấy mọi thời đại để nó ngày một đẹp hơn, hoàn thiện hơn. Và trong rất nhiều nét đẹp của chữ viết hoa ấy phải kể đến tình thương, lòng nhân ái. Bởi thế ta thấy có sự đồng nhất giữa văn học và tình thương.

Tình thương vốn là một trong những đức tính của con người. Nó xuất phát từ tấm lòng, trái tim mỗi con người. Nó mang tính hướng thiện, nhân đạo và nhìn sự việc bằng sự gắn bó với những tư tưởng hay giá trị đạo đức được xã hội công nhận. Là cơ sở gắn kết những mối quan hệ xung quanh, làm cho khoảng cách giữa con người gần hơn. Từ xưa đến nay, dân tộc Việt Nam ta luôn đề cao tư tưởng nhân ái, một đạo lí cao đẹp, truyền thống “lá lành đùm lá rách” cũng được phát huy qua nhiều thế hệ. Những tình cảm cao quý ấy được kết tinh, hội tụ và phản ánh qua những tác phẩm văn học dân tộc.

Nói văn học luôn ca ngợi lòng nhân ái và tình yêu thương giữa người và người quả không sai. Từ xưa trong văn học dân gian các cụ đã đề cao tình yêu thương con người. Ai trong chúng ta cũng thuộc lòng những câu ca dao như:

“Bầu ơi thương lấy bí cùng

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”

Hoặc câu:

“Nhiễu điều phủ lấy giá gương.

Người trong một nước phải thương nhau cùng”.

Rồi truyền thuyết “con Rồng cháu Tiên” giúp ta hiểu rõ hơn về từ “đồng bào”. Mẹ Âu Cơ và cha Lạc Long Quân đã sinh ra một trăm trứng và nở ra trăm con, 50 người con xuống biển sau này trở thành người miền xuôi, còn 50 người con khác lên núi sau này trở thành các dân tộc miền núi. Trước khi đi, Lạc Long Quân có dặn Âu Cơ rằng: sau này có gì khó khăn thì giúp đỡ nhau. Điều đó, cho thấy người xưa còn nhắc nhở con cháu phải biết thương yêu, đoàn kết, tương trợ nhau. Ta còn bắt gặp rất nhiều những câu chuyện về lòng yêu thương, tư tưởng nhân đạo của dân tộc trong văn học dân gian qua hình ảnh chàng Thạch Sanh đại diện cho chính nghĩa, hiền hậu, vị tha, dũng cảm, sẵn sàng tha thứ cho mẹ con Lý Thông, người đã bao lần tìm cách hãm hại mình. Rồi khi mười tám nước chư hầu kéo quân sang đánh Thạch Sanh nhằm cướp lại công chúa, chàng đã sử dụng cây đàn thần của mình để thức tỉnh binh lính, làm cho binh lính lần lượt xếp giáp quy hàng mà không cần động đến đao binh. Chàng lại mang cơm thiết đãi họ trước khi rút về nước. Ta còn biết đến một cô út dũng cảm làm vợ chàng Sọ Dừa kì dị. Câu chuyện về bông cúc trắng, bông hoa của tình yêu thương mãnh liệt đã làm nên điều kì diệu trong cuộc sống. Còn biết bao câu ca, câu chuyện thấm đẫm tình thương trong văn học dân gian ta không thể nào kể hết.

Đọc văn học trung đại ta lại thấy sự tiếp nối làm đẹp truyền thống đó. Cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi với tư tưởng nhân đạo cao cả:

“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn

Lấy chí nhân để thay cường bạo”

Chính là tư tưởng xuyên suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước.

Chúng ta cũng từng đọc Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du và hẳn vẫn giữ Truyện Kiều trong đáy sâu thẳm tâm linh, để luôn tự mình được trăn trở, chiêm nghiệm. Truyện Kiều, không chỉ là bản cáo trạng tội ác của bọn quan lại phong kiến, còn là một quyển kinh về tình thương. Tình thương cha, tình thương mẹ, thương chị em ruột thịt, thương người… như thể thương thân của nàng Kiều, đã in dấu ấn rất rõ tình thương mênh mông… của thi hào Nguyễn Du với thân phận những người phụ nữ.

Đến văn học hiện đại ta lại bắt gặp tình yêu thương rất con người đó. Hình ảnh cậu bé Hồng trong tác phẩm “Những ngày thơ ấu”, đã cho chúng ta thấy rằng: “tình mẫu tử là nguồn thiêng liêng và kì diệu, là mối dây bền chặt không gì chia cắt được”. Cậu bé Hồng phải sống trong cảnh mồ côi, chịu sự hành hạ của bà cô, cha mất, mẹ phải đi tha hương, ấy vậy mà cậu không hề oán giận mẹ mình, ngược lại vô cùng kính yêu, nhớ thương mẹ. Câu chuyện đã làm rung động biết bao trái tim của độc giả. Không chỉ phản ánh tình mẫu tử, văn học còn cho ta thấy một tình cảm vô cùng đẹp đẽ, sâu sắc không kém, đó là tình cảm vợ chồng. Tiểu thuyết “Tắt đèn” của nhà văn Ngô Tất Tố là minh chứng rõ nét nhất cho điều này. Nhân vật chị Dậu được tác giả khắc họa thành một người phụ nữ điển hình nhất trong văn học hiện thực Việt Nam. Chị là một người vợ thương chồng, yêu con, luôn ân cần, nhẹ nhàng chăm sóc cho chồng dù trong hoàn cảnh khó khăn, nguy khốn. Chị Dậu đã liều mình: đánh trả tên người nhà lí trưởng để bảo vệ cho chồng, một việc mà ngay cả đàn ông trong làng cũng chưa dám làm. Đọc truyện “Cuộc chia tay của những con búp bê” ta rưng rưng cảm động khi chứng kiến cảnh anh em Thành và Thủy chia tay nhau đầy nước mắt. Tác giả muốn gửi đến chúng ta thông điệp về tình cảm và sự gắn bó giữa anh em với nhau trong gia đình mà các cụ xưa đã từng đúc kết:

“Anh em như thể tay chân.

Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần”

Bên cạnh việc ca ngợi những con người “thương người như thể thương thân”, văn học cũng phê phán những kẻ ích kỉ, vô lương tâm. Trong truyện cổ tích “Tấm Cám”, chúng ta sẽ thấy được thái độ căm ghét của mọi người đối với mẹ con Cám. Cái chết ở cuối câu chuyện đã lên án gay gắt: những kẻ ác phải bị trừng phạt. Đáng ghê sợ hơn nữa là những người cạn tình máu mủ. Điển hình là nhân vật bà cô trong truyện “Những ngày thơ ấu”, một người độc ác, nham hiểm “giết người không dao”. Bà ta nói xấu, sỉ nhục mẹ bé Hồng trước mặt bé, đứa cháu ruột của mình, đứa cháu mồ côi tội nghiệp lẽ ra bà phải yêu thương để bù đắp lại những mất mát mà bé phải hứng chịu. Hay trong tiểu thuyết “Tắt đèn”, nhà văn Ngô Tất Tố đã cho chúng ta thấy sự tàn ác, bất nhân của tên cai lệ và người nhà lí trưởng. Chúng thẳng tay đánh đập những người thiếu sưu, đến những người phụ nữ chân yếu tay mềm như chị Dậu mà chúng cũng không tha. Rồi ông quan trong “Sống chết mặc bay” tiêu biểu cho tầng lớp thống trị, quan lại ngày xưa. Trong cảnh nguy cấp, nhân dân đội gió, tắm mưa cứu đê thì quan lại ngồi ung dung đánh tổ tôm. Ngay cả khi có người vào báo đê vỡ hắn vẫn thét lính đuổi ra và khi quan lớn ù ván bài to thì cũng là lúc cả làng ngập nước, nhà cửa lúa má bị cuốn trôi hết, tình cảnh thật thảm sầu. Chính sự việc cao trào đó đã lên án gay gắt tên quan hộ đê, hay chính là đại diện cho tầng lớp thống trị, dửng dưng trước sinh mạng của biết bao người. Văn học không chỉ viết về tình thương, ca ngợi tình thương. Văn học còn khơi dậy tình thương trong lòng chúng ta, muốn chúng ta sẻ chia, cảm thông với những con người bất hạnh. Không ai dửng dưng, cầm lòng khi đọc truyện Cô bé bán diêm tội nghiệp và cảnh cô bé chết trong đêm giao thừa lòng thầm hỏi trong cuộc sống này còn bao người sẽ chết như thế trước sự thờ ơ đến vô cảm của người đời? Cũng bao lần ta nhỏ lệ khi đọc đoạn trích Một cảnh mua bán trong Tắt đèn khi Ngô Tất Tố kể về cái Tí với bát cơm thừa của chó nhà Nghị Quế. Ta cũng chẳng thể dửng dưng trước nỗi truân chuyên của người con gái tài sắc Thuý Kiều mà Nguyễn Du đã bao lần nhỏ lệ khóc thương trong tác phẩm của mình. Rồi cảnh anh em Thành Thuỷ chia tay cùng những con búp bê làm lòng ta nhói đau khi chứng kiến những bất hạnh của tuổi thơ và nỗi bất hạnh mà các em phải gánh chịu quá sớm. Từ việc khơi dậy tình yêu thương ấy, văn học gửi đến chúng ta thông điệp: Hãy dâng tặng tình yêu thương cho mọi người ta lại cũng được đón nhận nó.

Văn học và tình thương luôn đồng hành tạo nên giá trị đích thực cho mỗi tác phẩm đồng thời giúp con người vươn tới chân – thiện – mỹ, hoàn thiện nhân phẩm và nhân cách con người. Và ở bất kỳ thời đại nào, giá trị lớn lao nhất của văn chương vẫn là “gây cho ta những tình cảm ta chưa có, luyện cho ta những tình cảm ta sẵn có”.

Nghị luận xã hội: Văn học và tình thương mẫu 4

Nói đến văn là nói đến một phương tiện biểu đạt cảm xúc của con người, nói đến văn học là nói đến một ngành khoa học của văn chương. Nghiên cứu văn học chính là soi chiếu “ba chiều” đời sống lên “hai mặt phẳng” trang văn (Chế Lan Viên) để phân định mọi cung bậc tư tưởng, tình cảm của con người. Đừng hỏi hà cớ gì chỉ có tình thương mà sao không phải là một loại tình cảm khác. Tình thương là cội nguồn của mọi cảm xúc vì nó xuất phát từ tấm lòng chân thành, và cũng là điểm đến cuối cùng mà con người cần đạt đến. Vì thế như một lẽ tất yếu, văn học là tấm gương phản hình đời sống thì phải khơi gợi được sâu xa nhất đời sống là tâm hồn con người, là tình thương. Văn học chuyên chở tình thương là văn học chân chính!

Ầu ơ lời ru của mẹ, thoang thoảng giọng hò bên sông, đọc đôi câu đối đình làng… thế thôi là yêu, thế thôi là nhớ. Điều nhân bản nhất văn học mang đến cho con người là cái tình mến thương với cuộc đời bình dị. “Nắng cho đời nên nắng cũng cho thơ” (Huy Cận), để rồi văn thơ đã đi tiếp chặng hành trình của nó mang cái tình nồng đượm của đời đến với lòng người. Tình thương đời có lẽ là mối tình thuỷ chung chân thật nhất…

“Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới

Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông”

Không cầu kì hoa mỹ, “Quê hương” của Tế Hanh hiện lên trong sự vây bọc của nỗi nhớ da diết, có gì đâu chỉ một làng chài ven biển như mọi ngôi làng khác, chỉ là hoạt động lao động rất đỗi bình thường, nhưng lòng mến thương của thi nhân đã là chất xúc tác biến kí ức thành loại men ngọt ngào. Bao quanh cái bình dị quen thuộc chợt trở thành hình ảnh biểu tượng với sức gợi lớn lao:

“Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”

Cái đẹp đâu chỉ có từ nghệ thuật nhân hoá thế này hay khả năng liên tưởng thế nọ, cái đẹp nằm ở ngay đằng sau câu chữ, là lòng tự hào của nhà thơ về quê hương. Là mảnh đất, là dân chài, là cuộc đời lao động… tất cả đều tồn tại trong cánh buồm ấy, “cánh buồm giương to” biểu tượng cho lòng say mê, niềm khát vọng đối với đời sống bình dị mà đẹp đẽ ở chốn quê hương mình. Để rồi “nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ”, bởi đơn giản thôi, cái tình thương mến đã thấm vào máu thịt nên “khi ta đi đất đã hoá tâm hồn” (Chế Lan Viên).

Văn học từ đời sống đến thẳng với mọi người, với sức vang dội riêng của tâm hồn, bằng tiếng nói riêng của tình cảm. Từ tình thương đời đến tình thương người là cuộc hành trình tất yếu tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc của văn học. Nó như nhân sự sống lên, làm cho người ta trong cuộc sống giới hạn của mình có thể bước qua ngưỡng cửa của hàng trăm cuộc đời khác, cùng vui buồn, ước mơ, lo toan với những con người khác. Ta vừa như quên mình, vừa như tự tìm ra mình trong sự đồng cảm bao dung ấy. Ai mà không xúc động trước hình ảnh của “cô bé bán diêm” giữa mùa đông tê tái, cứ từng hồi quẹt lên những que diêm để ngọn lửa nhỏ nhoi giữ lại những ước mơ đời thường. Ánh sáng của những que diêm hay ánh sáng của tình yêu và niềm hy vọng trong trái tim cô bé? Chính ánh sáng ấy đã lấy đi cảm giác về cái giá lạnh của trời đêm đang cướp dần sự sống ở trong em. Chính ánh sáng của trái tim lung linh như huyền thoại này đã khép lại câu chuyện bằng một hình ảnh tuyệt vời: hai bà cháu cầm tay nhau và vụt bay lên cao. Điều mà Anđecxen gửi gắm vào câu chuyện còn gì khác ngoài việc đánh động tình thương của con người. Tác giả để cho nụ cười đọng lại trên môi em như biểu tượng của tấm lòng vị tha, nhân hậu với cuộc đời. Nhưng đằng sau cuộc đời ấy là một câu hỏi xót xa: tại sao một đứa trẻ không được mỉm cười bằng những hình ảnh tưởng tượng trước khi về với cõi chết? Chính người đọc phải tự tìm lấy câu trả lời.

Khơi gợi tình thương từ mặt trái của tình thương là cách tiếp cận với con người chua xót nhất. Không chua xót làm sao được khi hôm nay chỉ là cái bóng thầm lặng còn sót lại của “vàng son” hôm qua. “Ông đồ” của Vũ Đình Liên là tiếng thổn thức nhân bản trước sự tàn lụi của một nền văn hoá, sự tồn tại lay lắt của một nghệ sĩ tài hoa:

“Ông đồ vẫn ngồi đấy

Qua đường không ai hay

Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài trời mưa bụi bay”

Kết thúc bài thơ là câu hỏi khắc khoải vọng vào không gian, vọng đến lòng người:

“Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ?”

“Cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn” (cách nói của Vũ Đình Liên) đã ra đi cùng với thái độ thờ ơ, lãnh đạm của người đời. Bài thơ nhẹ nhàng quá mà sâu nặng những nỗi cảm thương!

Thế giới thức tỉnh trong tôi, sự sống rạo rực trăn trở trong tôi và muốn tôi hoà tan vào trong thế giới ấy, muốn ban phát cho tất cả mọi người mà tôi càng thấy thêm gắn bó keo sơn bằng mối tình nhân loại. Tác động của văn học với con người là như thế! Qua “Chiếc lá cuối cùng”, O-Hen-ri không chỉ gửi thông điệp tình thương bạn đọc muôn thế hệ mà còn thể hiện lòng tin yêu mãnh liệt về con người, tin rằng tình người có thể làm thay đổi tất cả, kể cả cái chết. Bằng khao khát “một ngày kia tôi sẽ vẽ một tác phẩm kiệt xuất”, bằng tấm lòng nhân ái bao la, cụ Bơ-men đã “quên mình” để cứu lấy sự sống cho Giôn-xi từ một “bức hoạ” đặc biệt: chiếc lá thường xuân trên bức tường. Bệnh lao phổi từ Giôn-xi, cái chết chực chờ của cô đã chuyển giao sang người hoạ sĩ già. Điều còn lại không phải là cái chết mà là nhân cách sống, nghị lực sống của những con người “biết” cải tạo hoàn cảnh và “dám” cải tạo hoàn cảnh cho mình và cho người.

Văn học chuyển tải tình thương và văn học là tình thương! Tình thương trong văn học là tấm lòng của nhà văn đối với nhân vật của mình, là những cảm xúc rung lên từ mỗi dòng văn, kiểu như “Nguyễn Du viết Kiều như có máu rỏ trên đầu ngọn bút, nước mắt thấm qua từng trang giấy” vậy! Tình thương ấy tuy theo cách nhìn nhận của nhà văn nhà thơ đối với cuộc đời mà có nhiều sắc thái: một cảnh tình thương trong sáng với quê hương và con người lao động như “Quê hương” của Tế Hanh, một tình người bao la và niềm tin vững chắc vào con người như “Chiếc lá cuối cùng” của O-Hen-ri, hay một trăn trở khắc khoải đến đau lòng vì sự dửng dưng, phũ phàng của người đời như trong “Cô bé bán diêm” của An-đéc-xen hay “Ông đồ” của Vũ Đình Liên. Nhưng cuối cùng vẫn là cái tình nhân loại.

Ta đứng giữa cuộc đời rộng lớn của nhân loại, hai chân ta đứng trên mặt đất, lòng ta tỏa rễ vào đời đế một ngày người ta hiểu ra rằng:

“Có gì đẹp trên đời hơn thế

Người yêu người sống để yêu nhau”

(Tố Hữu)

Đó là thông điệp mà văn học chân chính gửi đến con người từ muôn thế hệ.

Nghị luận xã hội: Văn học và tình thương mẫu 5

Tương thân tương ái là một đạo lý cao đẹp, là truyền thống của người Việt Nam chúng ta. Truyền thống ấy được thể hiện thông qua nhiều những câu ca dao, tục ngữ chẳng hạn như “lá lành đùm lá rách”. Tình thương giữa con người với con người vì thế mà được đề cao. Trong văn học, tình thương cũng luôn được nhắc tới như một lẽ tất yếu. Con người quả thực chẳng thể nào sống mà không có tình thương.

Khởi nguồn của văn học với những truyền thuyết, chúng ta đã biết đến dân tộc Việt Nam được sinh ra từ cái bọc trăm trứng. Như vậy, tất cả chúng ta đều là anh em một nhà mà đã là anh em một nhà thì cần phải yêu thương và đùm bọc lẫn nhau. Sau này, để tiếp tục cho người đời sau hiểu về tình thương giữa con người với nhau thì người xưa lại tiếp tục đúc kết lại thành những câu ca dao. Rồi tiếp sau đó là những mẩu truyện ngắn, những tác phẩm văn chương đặc sắc.

Khi nói về tình cảm giữa anh em trong một nhà, chúng ta có thể nhớ đến ngay câu ca dao: “Anh em như thể tay chân, Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần”. Câu ca dao nói về sự gắn bó khăng khít giữa anh em trong một gia đình giống như tay với chân nên cần phải biết yêu thương và đùm bọc lẫn nhau. Thậm chí ngay cả với những người không cùng chung huyết thống như đều là anh em trong một nước thì cũng cần phải đoàn kết thương yêu nhau như câu ca dao: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Hay như câu “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng” cũng là ý nói người dân sống trong cùng một đất nước thì phải biết thương yêu lẫn nhau.

Sau này, những tác phẩm văn chương lớn hơn cũng xoay quanh tình thương của con người. Văn chương thể hiện tình thương mà trước hết đó là tình cảm giữa những con người trong gia đình. Đọc Những ngày thơ ấu, chúng ta thấy được tình mẫu tử thiêng liêng giữa bé Hồng và mẹ của mình. Mẹ, người đã sinh thành ra chúng ta, chỉ một tiếng gọi ấy thôi cũng đủ khiến cho bao người phải xúc động. Ngay cả khi mẹ của cậu phải bỏ lại cậu để đi tha hương cầu thực thì tình yêu mà bé Hồng dành cho mẹ cũng không bao giờ nguôi. Cậu bé yêu mẹ, thương mẹ và kính mẹ.

Cùng với tình mẫu tử, văn chương cũng ca ngợi tình cảm vợ chồng. Người xưa có câu “Thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn” cho ta thấy sức mạnh của tình nghĩa vợ chồng lớn đến nhường nào. Trong văn học, ta cũng thấy được có những mối tình vợ chồng sâu đậm, khăng khít. Chẳng hạn như tình cảm của chị Dậu dành cho chồng của mình. Là phụ nữ chân yếu tay mềm nhưng khi thấy chồng bị đánh, chị đã dám lao mình vào để bảo vệ chồng. Hành đồng ấy của chị mới cao đẹp làm sao.

Một thứ tình cảm nữa không thể không nhắc đến là tình cảm của anh em trong một nhà như trong câu chuyện Cuộc chia tay của những con búp bê. Ngay cả những con búp bê cũng không nỡ xa nhau mà hai anh em Thành và Thuỷ lại phải chia ly. Thật khiến cho người đọc xúc động biết bao.

Rồi thì tình làng nghĩa xóm cũng được ca ngợi nhiều trong văn học. Người xưa có câu “hàng xóm tối lửa tắt đèn có nhau” hay “bán anh em xa mua láng giềng gần” ý nói những người sống gần gũi với nhau thì nên giúp đỡ nhau lúc hoạn nạn. Chính những lúc khó khăn chúng ta mới thấy rằng người bên cạnh mình là người quan trọng nhất. Tuy không phải là anh em mà lại gần gũi hơn cả anh em.

Qua những dẫn chứng trên đây, chúng ta có thể thấy rằng văn học và tình thương gần như là một. Văn học là sự phản ánh của tình thương. Văn học cho con người ta nhìn thấy tình thương, xích người ta lại gần với nhau hơn. Nhờ có văn học, tâm hồn của con người mới được rộng mở. Từ ấy, chúng ta biết yêu, biết thương và biết trân trọng cuộc đời này.

Nghị luận xã hội: Văn học và tình thương mẫu 6

Văn chương là một sản phẩm tinh thần mang tính sáng tạo cao, phản ánh những tâm tư tình cảm, quan điểm, tư tưởng của một con người về thế giới và xã hội xung quanh, đồng thời nhân đó bộc lộ cả tam quan, tâm hồn của một con người. Từ ngàn đời nay văn chương đã xuất hiện như là một phần thiết yếu của lịch sử loài người, phản ánh nền văn minh của nhân loại, nhưng cho dù là văn học của bất kỳ nền văn hóa, chế độ, thể loại, hay thời kỳ lịch sử nào văn học vẫn luôn mang trong mình một đặc điểm chung nhất ấy là gắn liền với tình thương của cá nhân theo những mức độ khác nhau.

Văn học ở đây chỉ một phạm trù rộng lớn bao gồm các tác phẩm văn chương ở nhiều thể loại ứng với từng thời kỳ và sự phát triển của nhân loại như thơ, từ, ca, phú, tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện dài, văn chính luận, biền ngẫu, sử thi, truyền thuyết, ca dao, tục ngữ, thành ngữ,… do một cá nhân hay tập thể sáng tạo ra với mục đích chính là để bộc lộ các khía cạnh của tâm hồn cá nhân, mang những ý nghĩa nhân văn, đạo đức, giáo dục con người, phục vụ cho hoạt động chính trị, quân sự, hoặc đơn thuần là thú vui tao nhã của bậc cao nhân mặc khách. Văn học chủ yếu nhất vẫn là được lưu truyền bằng hình thức ghi chép lại, nhưng cũng có một số thể loại văn học dân gian thì được truyền miệng qua nhiều đời, chính vì vậy phần nội dung thường có nhiều những biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng văn chương là một tập hợp những kho tàng tri thức vô tận của con người, là nơi lưu giữ những bộ óc nghệ thuật và sáng tạo nhất, hãy tưởng tưởng rằng thế giới này nếu không có văn chương có lẽ sẽ buồn chán và ảm đạm lắm, bởi con người sẽ nhanh chóng quên mất lịch sử gốc gác của mình, cũng không biết được những nét đẹp truyền thống văn hóa của cha ông, đồng thời cũng chẳng thể mở rộng tầm nhìn cá nhân, học hỏi kiến thức thông qua những cuốn sách vĩ đại. Có thể nói rằng chính văn chương đã đem đến cho con người và thế giới một cuộc sống đa dạng và phong phú hơn.

Tình thương có thể hiểu một cách đơn giản đó là thứ tình cảm xuất phát từ tâm hồn của mỗi con người đối với các sự vật hiện tượng và những người xung quanh mình, nó bao gồm các thứ tình cảm như tình yêu quê hương, đất nước, thiên nhiên cuộc sống, tình cảm gắn bó, trân trọng đối với gia đình, người thân, tấm lòng nhân ái, trắc ẩn giữa con người với con người, sự bao dung thấu hiểu lẫn nhau,… Chung quy lại tình thương tức là chỉ tất cả những thứ tình cảm mang tính tích cực, khiến con người ta có ánh mắt bao dung trìu mến và thấu hiểu thêm được những giá trị trong cuộc đời, từ đó hướng đến của một xã hội nhân văn, một tâm hồn cao cả hơn, thúc đẩy con người hướng đến một cuộc sống tốt đẹp hơn, đạo đức hơn.

Văn học chỉ thực sự là có ý nghĩa khi bản thân nó bao hàm được những tình thương, và có tác động tích cực tới tư tưởng tình cảm của độc giả, và từ ngàn đời nay chưa khi nào người ta thấy văn học tách rời khỏi yếu tố tình thương. Trước hết nói về văn học với tình yêu quê hương, đất nước, đây có thể xem là một trong những nội dung và là chủ đề xuyên suốt trong văn học dân tộc Việt Nam từ thời trung đại cho đến tận ngày hôm nay. Ví như trong văn học trung đại, chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp tình yêu quê hương, đất nước, thể hiện qua tư tưởng độc lập, tự cường, lòng tự tôn dân tộc, ý chí quyết tâm chống giặc và lòng căm thù giặc sâu sắc xuất hiện trong hàng loạt các tác phẩm như: Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn, Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão, Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu, Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan,… và cả trong nhiều bài thơ khác nữa của Nguyễn Trãi ta đều thấy rất rõ điều ấy. Trong văn học hiện đại, giai đoạn hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ diễn ra ác liệt, thì các tác phẩm văn chương nói về đề tài yêu nước và chống giặc ngoại xâm lại càng nở rộ và rực rỡ hơn bao giờ hết. Về các tác phẩm thơ có thể kể đến Tây Tiến của Quang Dũng, Đồng chí của Chính Hữu, Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm, Từ ấy, Việt Bắc của Tố Hữu,… thể hiện tinh thần chiến đấu chống giặc cứu nước của bao thế hệ thanh niên. Hoặc các bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, Nói với con của Y Phương thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng với quê hương, con người thông qua những nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc. Về văn xuôi có thể kể đến các tác phẩm như Làng của Kim Lân, Đôi mắt của Nam Cao, Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi, tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài,… và nhiều các tác giả khác nữa đều thể hiện rất đậm đặc một nội dung ấy là lòng yêu nước sâu sắc, ý chí chí quyết tâm chống giặc mạnh mẽ của những con người anh hùng trên mảnh đất hình chữ S. Một số các tác phẩm khác thể hiện tình yêu quê hương đất nước thông qua việc ca ngợi vẻ đẹp của quê hương của con người lao động ví như: Quê hương của Tế Hanh, Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên, Tùy bút Sông Đà, ký Cô Tô của Nguyễn Tuân, Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường,…

Một khía cạnh khác của tình thương được thể hiện khá nhiều trong văn học Việt Nam chính là tình cảm gia đình với các mối quan hệ anh em, vợ chồng, cha con, mẹ con,… chủ yếu được bộc lộ trong các câu ca dao, tục ngữ xưa. Ví như giữa tình cảm vợ chồng có câu: “Tay bưng dĩa muối chấm gừng/Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” hay “Đồng vợ đồng chồng tát biển Đông cũng cạn”. Tình cảm anh em có câu “Anh em như thể chân tay/Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần”, tình phụ tử, mẫu tử có bài “Công cha như núi Thái Sơn/Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra…”. Trong văn học hiện đại cũng có nhiều tác phẩm phản ánh tình cảm gia đình như Cuộc chia tay của những con búp bê (Khánh Hoài), Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, Không gia đình của Hector Malot, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Đò Lèn của Nguyễn Duy, Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi, Cổng trường mở ra của Lý Lan, Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng,… Tình cảm gia đình ở trong các tác phẩm này được bộc lộ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua việc tác giả tạo dựng tình huống và giải quyết từ đó nhấn mạnh tầm quan trọng, mối quan hệ gắn bó, yêu thương của những cá nhân trong một gia đình, ca ngợi tình mẫu tử, phụ tử, sự hy sinh của người cha, người mẹ dành cho những đứa con và tình cảm trân quý, ngưỡng mộ, yêu thương của những đứa con dành cho cha mẹ của mình, đồng thời cũng khẳng định tầm quan trọng của gia đình trong xã hội, trong sự phát triển toàn diện của mỗi cá nhân.

Một phương diện phổ biến nữa mà văn học cũng thường hướng tới ấy là tình thương giữa con người với con người, bao gồm tình yêu đôi lứa, sự thương xót cảm thông cho các số phận cùng khổ, sự thấu hiểu, ca ngợi vẻ đẹp của con người, đặc biệt là người phụ nữ dưới chế độ phong kiến,… Có thể nói rằng đây là một trong những khía cạnh nhân văn, nhân bản nhất của văn học, nó đem đến cho con người những góc nhìn mới, những tư tưởng mới, sự thấu hiểu cảm thông đối với những mảnh đời, những số phận khác nhau, khiến con người ta biết yêu thương, biết trân trọng cuộc sống hơn, biết sống nhân nghĩa, tình cảm và giàu lòng yêu thương hơn cả. Điều mà có lẽ trước đây nếu không có sự ảnh hưởng mạnh mẽ của văn học, con người sẽ dễ mãi sống trong tầm nhìn hạn hẹp, trong sự ích kỷ và thiếu tính sẻ chia. Văn học với tình cảm nhân ái giữa con người với con người là một khuynh hướng sáng tác đã xuất hiện từ sớm trong văn học trung đại, trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi thể hiện rõ nhất ở tư tưởng nhân nghĩa, yêu dân, đau xót trước nghịch cảnh nhân dân bị giặc Minh chà đạp, tàn sát. Đến khoảng sau thế kỷ XV, là sự xuất hiện của một loạt các tác phẩm ngầm lên án chế độ phong kiến bất công, và thương cảm cho thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ, đồng thời ca ngợi những vẻ đẹp tâm hồn và ngoại hình của họ. Có thể kể đến các tác phẩm: Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều, đa số các sáng tác của Hồ Xuân Hương ví như: Tự tình, Bánh trôi nước,… hay đặc biệt nổi tiếng được xếp vào hàng kiệt tác là Truyện Kiều của Nguyễn Du, ngoài ra còn có Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ,… Ở văn học hiện đại, tình cảm nhân ái giữa người với người được thể hiện chủ yếu trong các tác phẩm văn học hiện thực: Chí Phèo, Đời thừa, Lão Hạc của Nam Cao, Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, Vợ nhặt của Kim Lân, Chị Dậu của Ngô Tất Tố,… Tập trung vào số phận khốn khổ của người nông dân trí thức cũ dưới chế độ thực dân nửa phong kiến với tình cảm xót thương, thấu hiểu đồng thời tỏ ý trân trọng, ca ngợi những vẻ đẹp đáng quý trong tâm hồn họ.

Tựu chung lại, tình thương là một yếu tố tối cần của văn học, nếu một tác phẩm thiếu đi yếu tố này thì hầu như nó không đem đến cho độc giả được bất kỳ một giá trị nào. Bởi lẽ giữa độc giả và tác phẩm không có được sự kết nối của xúc cảm, người đọc cũng không hiểu được tâm hồn của người nghệ sĩ trong sáng tác, cũng như tư tưởng mà họ muốn thông qua tác phẩm để truyền đạt. Văn học với tình thương có vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của con người, nó mang đến cho con người những cái nhìn mới mẻ, phong phú và nhiều màu sắc hơn, làm sâu đậm hơn những tình cảm sẵn có và khai mở những tình cảm chưa có trong trái tim của mỗi con người, có ý nghĩa giáo dục vô cùng lớn đối với sự tồn vong của nhân loại.

Nghị luận xã hội: Văn học và tình thương mẫu 7

Từ khi xa xưa con người biết phản ánh tâm tư tình cảm của mình qua văn học truyền miệng hay trên những trang giấy, văn học đã trở thành người bạn thân thiết, gắn bó với con người. Nó là sợi dây liên kết vô hình khiến con người xích lại gần nhau hơn. Văn học giúp cho con người chung sống với nhau bằng tình cảm đẹp đẽ, sự sẻ chia và cảm thông. Vì thế ngay từ khi sinh ra, văn học và tình thương đã có mối quan hệ chặt chẽ: tình thương tạo nên sự hấp dẫn cho văn học và văn học có nhiệm vụ quan trọng là truyền tải tình thương.

Văn học vô cùng quan trọng đối với cuộc sống tinh thần của con người. Nó là một bộ môn nghệ thuật có từ rất lâu đời, là công cụ giúp con người bày tỏ cảm xúc hay tình cảm của mình bằng những từ ngữ, kí hiệu và con dấu. Các tác phẩm văn học được làm nên từ các chất liệu có trong cuộc sống chính vì vậy chúng miêu tả được cuộc sống muôn hình vạn trạng một cách chân thực và chính xác hơn bất cứ ai. Văn học cũng chính là chiếc chìa khóa vàng mở rộng lòng nhân ái trong tâm hồn, phát triển nhân cách tốt đẹp. Văn học gồm nhiều thể loại tác phẩm nghệ thuật như truyện ngắn, tự truyện, hồi kí hay tiểu thuyết,…

Ta có thể nói văn học là nhân học, tức là nó có tính nhân văn. Văn học chứa đựng trong nó muôn vàn những tình cảm tốt đẹp giữa con người. Đó chính là tình thương. Nhưng cụ thể hơn, tình thương được thể hiện trong văn học khá sâu sắc và đa chiều. Chúng thể hiện những cung bậc cảm xúc khác nhau của con người. Đó cũng là khi những nhà văn, thi sĩ bộc lộ sự thương cảm xót xa sâu sắc đối với những mảnh đời, thân phận bất hạnh; phê phán gay gắt những việc làm sai trái và những kẻ chà đạp lên con người; hay là lời ca ngợi vẻ đẹp quê hương, thiên nhiên, đất nước.

Văn học và tình thương gần như là hai khái niệm không thể tách rời, có quan hệ chặt chẽ với nhau. Văn học thể hiện tình thương trong nhiều mối quan hệ khác nhau. Ấm áp và thiết tha như tình cảm gia đình, cái nôi hình thành nhân phẩm đạo đức của mỗi người. Cũng vì vậy mà người xưa cũng rất coi trọng tình cảm thiêng liêng này và trân trọng đặt nó lên hàng đầu qua câu ca dao:

“Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển Đông”

Công lao cao cả của người bố cùng tình thương vô bờ bến của người mẹ được so sánh với các hình ảnh hùng vĩ của thiên nhiên đã in sâu vào tâm trí những người làm con giúp cho họ làm tròn chữ hiếu, đền đáp lại công ơn trời biển của cha mẹ. Còn trong văn học hiện đại, tác phẩm tiêu biểu mà ta đã được học là “Trong lòng mẹ”. Bài văn thể hiện tình cảm trong sáng, sâu sắc của bé Hồng đối với người mẹ bất hạnh của mình. Bằng cả tâm hồn và tình yêu thương, em đã cố giữ cho hình ảnh người mẹ nhân hậu, hiền dịu không bị vấy bẩn bởi những hủ tục và thành kiến thâm độc. Vì sao mà một cậu bé còn nhỏ đã có thể có tình thương lớn lao và lòng tin tưởng tuyệt đối về người mẹ đến vậy?

Tình cảm gia đình không chỉ có tình mẫu tử mà còn có tình anh em thắm thiết. Sau khi đọc tác phẩm “Bức tranh của em gái tôi” bạn có thể cảm nhận được tấm lòng khoan dung, sẵn sàng tha thứ cho người anh trai để rồi giúp cho người anh thức tỉnh khỏi sự ganh tị và ghen ghét. Cũng là tình cảm anh em nhưng bài “Cuộc chia tay của những con búp bê” lại thấm nặng tình nghĩa và cuộc chia ly đẫm nước mắt, buồn tủi của những đứa trẻ bất hạnh. Yêu thương nhau biết bao thì lúc xa nhau càng đau đớn bấy nhiêu. Nỗi đau đấy đã để lại một ấn tượng sâu nặng trong lòng người đọc, khiến họ càng thêm xót xa và khâm phục tình cảm thiết tha của hai anh em Thành và Thủy.

Không chỉ thế, văn học cũng góp phần khắc họa nên sự gần gũi, thân thiết và vui vẻ của tình bạn – một thứ tình cảm đẹp không hề vụ lợi, toan tính. Và đó chính là những gì mà Nguyễn Khuyến đã miêu tả một cách chân thực trong bài thơ “Bạn đến chơi nhà”. Mở đầu bài thơ là một câu chào hỏi vồn vã, thân tình như reo lên khi người bạn tri kỉ đến. Bằng một giọng văn hóm hỉnh, ông đã nêu lên những thiếu thốn về vật chất để khẳng định một tình bạn gắn bó giữa mình và bạn. Phải đó là một tình bạn cao đẹp vượt lên trên tất cả những tầm thường về vật chất và của cải để đến với nhau bằng tấm lòng.

Ngoài tình thương đối với những người mà ta thân quen, văn học cũng ca gợi tình cảm giữa những người cùng chung sống trong một xã hội. Vì vậy, “thương người như thể thương thân” từ lâu đã trở thành một truyền thống đạo lý của người Việt Nam.

Văn học ca ngợi tình cảm đẹp và đồng thời cũng phê phán những việc làm, hành động hay những kẻ chà đạp lên con người. Văn học luôn lên án gay gắt những kẻ chỉ biết nghĩ tới bản thân mà thờ ơ với mạng sống của người khác. Nhân vật điển hình mà học sinh đã được học là viên quan phụ mẫu trong bài “Sống chết mặc bay”. Hắn là một con người tàn nhẫn đến độ có thể bình thản mà ngồi chơi bài trong khi mưa bão đang cướp đi mạng sống của những người dân đen. Tiếng thét kinh hoàng hòa cùng với tiếng gió giật, mưa rít vẫn không làm bậc “quan cha mẹ” bận lòng. Câu chuyện kết thúc cũng là lúc quan thắng ván bài, tất cả mọi thứ đều chìm trong biển nước. Nụ cười hả hê, phi nhân nghĩa của quan vang lên càng xoáy sâu vào lòng người đọc sự thương cảm, xót xa đến tột độ đến những con người bất hạnh. Câu chuyện “Cô bé bán diêm” đã nhẹ nhàng đi vào lòng người đọc bởi hiện lên từng trang sách là hình ảnh của một em bé mồ côi nghèo khổ không được sống trong vòng tay yêu thương của gia đình. Cảnh ngộ đó còn đáng thương hơn khi con người xung quanh cũng lạnh giá như mùa đông khắc nghiệt. Câu chuyện đã tố cáo một cách kín đáo sự thờ ơ và vô tâm của xã hội lúc bấy giờ đã đẩy những con người nghèo khổ vào bước đường cùng.

Và ngay với những kẻ gian ác xảo quyệt, dối trá cũng vậy văn học quyết không nương tay với chúng. Như trong chuyện Lý Thông cuối cùng cái thiện cũng thắng cái ác, hai mẹ con Lí Thông bị biến thành những con bọ hung suốt ngày chui rúc ở những chốn bẩn thỉu cho đến cuối đời vì những tội ác chúng đã gây ra.

Văn học nước ngoài cũng góp phần làm phong phú thêm kho tàng tình cảm của con người. Đặc biệt nó ca ngợi cả tình cảm đẹp giữa những người không cùng ruột già máu mủ. Và O’henry đã chỉ rõ cho ta thấy điều đó qua tác phẩm “Chiếc lá cuối cùng”. Khi Giôn-xi bị ốm, Xiu cùng cụ Bơ-men đã hết lòng chăm sóc mong giành lại cô khỏi cái chết đang đến gần. Cụ Bơ-men tuy chỉ xuất hiện rất ít nhưng lại để lại ấn tượng sâu sắc nhất. Cụ yêu thương Giôn-xi như con gái mình và sẵn sàng hi sinh mạng sống của mình để cứu Giôn-xi khỏi những suy nghĩ tuyệt vọng đang kéo cô xa dần cuộc sống thực tại.

Văn học trau dồi tình thương, gợi cảm xúc cho con người, làm cho họ gắn bó với nhau. Có người đã từng nói “Tình cảm của con người cũng giống một viên kim cương thô mà nhờ có văn chương “mài nhẵn” mới trở thành viên đá quý đẹp gấp vạn lần”. Đọc các tác phẩm văn học ta thấy gần hơn với những nhân vật trong chuyện và từ đó biết lắng nghe, rung động, cảm thông, chia sẻ. Đó là bước đi đầu để hình nhân phẩm đạo đức và từ đó có những suy nghĩ, hành động đúng. Quả thật không sai, như M.Gorki đã từng nói “xét đến cùng, ý nghĩa thực sự của văn học là nhân đạo hóa con người”. Nhờ thế, văn học không chỉ dừng lại ở giá trị văn chương mà còn được mở rộng thành những viên gạch đầu tiên xây đắp ngôi nhà của tình thương giữa con người với con người trong xã hội.

Từ tất cả những dẫn chứng trên ta càng thấy văn học và tình thương gắn bó chặt chẽ với nhau đến chừng nào. Bởi lẽ tình thương khởi nguồn cho văn học và làm cơ sở để văn học tiếp tục truyền tải tình thương. Văn học và tình thương hòa quyện vào nhau và tạo nên những điều tốt đẹp nhất cho con người giúp con người phát triển theo một định hướng chung để ngày một hoàn thiện. Có vậy, con người mới có thể cùng nhau chung sống trong tình yêu thương.

Nghị luận xã hội: Văn học và tình thương mẫu 8

Chúng ta có thể thấy, trong tất cả các tác phẩm văn học, không có tác phẩm nào là không nhắc tới tình thương. Thật vậy, văn học và tình thương là hai khái niệm đan xen, không thể tách rời.

Văn học là một bộ môn nghệ thuật dùng ngôn ngữ để tái hiện đời sống. Các nhà văn, nhà thơ cũng dùng ngôn ngữ để diễn tả tự tưởng, tình cảm của mình với cuộc sống, đặc biệt là tình yêu thương luôn được các nhà văn đề cập đến ở nhiều phương diện. Tóm lại, các cung bậc tình cảm yêu thương đều được phản ánh rất sinh động trong các tác phẩm văn học. Còn tình thương là những biểu hiện tình cảm của người với người, là sự thương mến, xót xa, đồng cảm của những tấm lòng nhân ái, là thứ tình cảm trao đi mà không cần nhận lại, không vụ lợi, toan tính.

Trước tiên, văn học thể hiện phong phú các cung bậc tình cảm yêu thương của con người. Khởi nguồn cho mọi tình yêu, đó là tình cảm gia đình – một thứ tình cảm mà chỉ có máu mủ ruột già mới hiểu được. Trong đó, tình mẫu tử là cao quý hơn cả. Hình ảnh cậu bé Hồng trong tác phẩm “Những ngày ấu thơ”, đã cho ta thấy được lòng hiếu thảo của Hồng và tình yêu thương mẹ tha thiết. Cậu phải sống trong cảnh mồ côi, người cha nghiện ngập rồi chết, người mẹ cùng túng phải đi tha phương cầu thực, Hồng đã phải sống trong cảnh hắt hủi ghẻ lạnh đến cay nghiệt của chính những người trong họ hàng. Ấy vậy mà cậu không hề oán trách mẹ, ngược lại, cậu lại càng yêu thương mẹ hơn. Và chính người mẹ, cũng đã vượt qua những dị nghị, những sự mặc cảm để trở về bên đứa con bé bỏng của mình. Không chỉ ở những tác phẩm văn học, mà ca dao tục ngữ cũng nói về tình cảm mẫu tử:

“Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi suốt đời lòng mẹ vẫn theo con”

Cho dù ta đã lớn khôn, trưởng thành, nhưng mẹ sẽ luôn ở bên cạnh ta, theo ta đến suốt cuộc đời này. Mẹ ở bên ta để chia sẻ với ta những niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống, và mỗi khi ta vấp ngã, mẹ sẽ là người động viên, cổ vũ để ta có thể tự đứng lên bằng chính đôi chân của mình. Tiếp theo, văn học còn cho ta thấy một thứ tình cảm cũng vô cùng đẹp đẽ, sâu sắc không kém, đó là tình cảm vợ chồng. Ví dụ như chị Dậu trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô tất Tố, chị là một người phụ nữ đảm đang, yêu thương chồng con hết mực, dám vùng dậy đấu tranh, đánh trả bọn cai lệ và người nhà lí trưởng để bảo vệ chồng mình. Không chỉ vậy, chắc hẳn trong chúng ta không ai có thể quên được câu chuyện cảm động “Cuộc chia tay của những con búp bê” của nhà văn Khánh Hoài. Hai anh em Thành và Thuỷ chia tay nhau đẫm nước mắt. Những con búp bê trong truyện cũng như hai anh em Thành và Thuỷ trong sáng, vô tư, không có tội lỗi gì, thế mà lại phải chia tay nhau. Đọc câu chuyện này, chúng ta thấy rơi nước mắt vì tình cảm yêu thương nhau của hai anh em. Qua đó, nhà văn đã cho chúng ta thấy tình cảm gắn bó giữa anh em với nhau trong gia đình.

Không chỉ trong gia đình mà ngay cả giữa những con người không cùng máu mủ, nhưng văn học vấn đề cập đến, đó tình yêu thương giữa con người với con người trong xã hội. Người xưa luôn nói đến tình cảm yêu thương đồng bào qua câu ca dao:

“Bầu ơi thương lấy bí cùng

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”

Bầu và bí là hai loại cây khác nhau nhưng thường được người nông dân trồng chung trên một rẻo đất, thường leo chung một giàn tre. Nó trở nên thân thiết, gần gũi, cùng chung một điều kiện sống, cùng chung một số phận. Chính vì thế, dân gian đã mượn hình ảnh cây bầu, cây bí, qua đó nhắc nhở con người phải biết yêu thương, đùm bọc nhau. Hay như nhân vật ông giáo trong tác phẩm “Lão Hạc” của Nam Cao, ông là một người tri thức nghèo nhưng có lòng yêu thương người vô bờ bến. Khi lão Hạc phải xa con, dằn vặt vì không lo nổi đám cưới cho con mình, khi lão Hạc khổ sở vì bán con chó, thì chính ông giáo là người xoa dịu cái nỗi đau của lão Hạc. Ông là chỗ dựa tinh thần, là niềm an ủi, tin cậy của lão Hạc. Không chỉ vậy, ông giáo còn tìm mọi cách để giúp khi biết lão Hạc đã nhiều ngày không ăn gì.

Lòng yêu thương đất nước còn được thể hiện sâu sắc trong tác phẩm “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn. Trước tiên, Trần Quốc Tuấn thể hiện lòng yêu nước của mình ở lòng căm thù giặc. Ông vạch trần tội ác của giặc bằng lời lẽ sinh động, coi chúng như loài cầm thú: “cú diều”, “dê chó”, “hổ đói”. Trạng thái căm uất sục sôi, hận thù bỏng rát, chất chứa cảm xúc lớn về vận mệnh đất nước. Không chỉ Trần Quốc Tuấn là một vị chủ tướng yêu nước, mà ngay cả Nguyễn Trãi cũng thể hiện lòng yêu nước của mình qua văn bản “Nước Đại Việt ta”. Nguyễn Trãi đã có tư tưởng tiến bộ, ông đề cao sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của dân tộc. Không những thế, ông còn cho ta thấy tất cả các yếu tố của một quốc gia có độc lập tự chủ: nền văn hoá lâu đời, có lãnh thổ riêng, phong tục riêng.

Tình thương trong văn học còn thể hiện ở các nhà văn phê phán thái độ sống ích kỷ, độc ác của con người trong xã hội. Ví dụ như trong truyện cổ tích “Tấm Cám”, chúng ta sẽ thấy được thái độ căm ghét của mọi người đối với mẹ con Cám. Cái chết ở cuối câu chuyện đã lên án gay gắt: những kẻ ác phải bị trừng phạt. Không chỉ trong truyện cổ tích dân gian, mà chính trong những tác phẩm văn học nước ngoài cũng phê phán lối sống vô lương tâm của con người. “Cô bé bán diêm” của Andersen là một trong những tác phẩm đó. Vào đêm giao thừa, một em bé mồ côi mẹ, đầu trần chân đất, bụng đói người rét, vẫn phải đi bán diêm. Em lang thang trên khắp mọi nẻo đường, nhưng không ai để ý đến em. Và cuối cùng, cô chết trong một xó tường, xung quanh là những que diêm đã đốt hết. Qua câu chuyện này, tác giả đã lên án thái độ sống thờ ơ của những con người trong xã hội.

Tình yêu thương gia đình, yêu thương đồng loại, phê phán những tội ác to lớn, tất cả đều được phản ánh trong văn học. Văn học chính là yếu tố quan trọng trong việc lưu giữ lịch sử của thế hệ trước cho đời sau.

Nghị luận xã hội: Văn học và tình thương mẫu 9

“Không có gì nghệ thuật hơn bản thân lòng yêu quý con người.” Đó là chân lí cuộc sống và cũng là chân lí của văn học. Nếu ví văn chương là con diều bay bổng trên trời cao bao la thì tình thương yêu chính là làn gió mát để nâng con diều ấy bay cao, bay xa đến những thăng hoa nghệ thuật và trường tồn với thời gian. Đọc những tác phẩm từ mọi thời, của mọi nhà văn, ta lại càng cảm nhận sâu sắc cái chân lí vĩnh cửu và xanh tươi ấy.

Mấy ai đã từng cố định nghĩa văn học là gì. Văn học được xác lập nhờ mối rung cảm thầm kín giữa con người và cuộc sống. Sống trong dòng chảy ngọt ngào của văn học, con người tắm mình trong tình cảm của nhà văn và của chính mình, Nhà văn phải luôn luôn đến với cuộc sống, để cảm nhận, khám phá, thẩm định nó. Văn học ra đời từ cuộc sống, văn học phải quay trở về để khám phá thể hiện lại cuộc sống. Song nếu chỉ dừng lại ở đó, ,văn học chưa là văn học, nó chỉ là cuốn biên niên sử thuần túy. Văn học chỉ thật sự là văn học khi nào từ cuộc sống ấy mà bật lên nét “cảm”, sự rung động của trái tim nghệ sĩ. Nhiệm vụ thiêng liêng của văn học chính là nuôi dưỡng tình thương trong con người, là đề cao tình thương và lên án những gì chà đạp lên giá trị nhân bản ấy.

Thế kỉ XV, đại thi hào Nguyễn Du viết “Đoạn trường tân thanh”. Trong đó, ta bắt gặp những sự thối nát, những cảnh trái ngang, nhưng hơn hết vẫn là một tấm lòng chan chứa nhân ái, yêu thương con người của Nguyễn Du. Truyện Kiều của ông có những hiện thực của “những điều trông thấy” nhưng phải được chắt ra từ những giọt nước mắt “đau đớn lòng”. Đó vừa là sự khẳng định, vừa là sự tiếp nối niềm tin về nhân cách và bản chất tốt đẹp của con người. Nếu sống thờ ơ ghẻ lạnh như một kẻ hành hương bàng quan, quyết Nguyễn Du không thể hòa vào với cuộc đời dâu bể của nàng Kiều để rung lên những tình cảm sâu lắng nhất. Ông đã đồng cảm với nàng Kiều và phát hiện ra cái cao thượng trong số phận tưởng chừng đã bị đạp xuống đáy sâu nhân cách ấy, cái trinh bạch trong con người Kiều giữa xã hội

Trong dòng văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám, Nam Cao qua “Chí Phèo” đã nói một lời thanh minh, một sự khẳng định về phẩm chất tốt đẹp đối với người nông dân trong bi kịch tha hoá. Nhà văn đã cho tình thương – chứ không phải điều gì khác – trở thành một ngọn lửa sưởi ấm trái tim con quỷ làng Vũ Đại. Ông dựng lên mối tình giữa hắn và Thị Nở, với giây phút thức tỉnh hiếm hoi khi lần đầu tiên cảm nhận hai chữ “tình thương”. Với tiếng thét nhức nhối tâm can: “Ai cho tao lương thiện”, cho người đọc nhận ra cái phần Người trong một kẻ tưởng như đã mất hết cả nhân hình và nhân tính.

Nhà văn Thạch Lam thì dùng những trang viết giàu chất thơ để nói lên khao khát của những người dân phố huyện khắc khoải đợi chờ ánh sáng của một thế giới khác hơn đến với cuộc sống tù túng, tẻ nhạt của mình (Hai đứa trẻ). Nguyên Hồng thì khắc họa những “rung động cực điểm của một tâm hồn trẻ dại” của cậu bé ngày được gặp lại mợ trong “những ngày thơ ấu.” Ở đấy dường như không còn chỉ là vấn đề trái tim, mà là cái nhìn sắc sảo đã quyện hoà vào trong xúc cảm. Người nghệ sĩ phải có tình thương thì mới có thể sáng tác văn học, bởi chỉ có tình thương thì người ta mới vượt qua những bề nổi thông thường để phát hiện trong mỗi thân phận người những nỗi niềm sâu kín, những cảm xúc đa chiều đến vậy.

Và như thế, có một sự chuyển hóa trong tình yêu của tha nhân vào trong nỗi đau của người cầm bút. Và như thế, chính sự bận lòng với nhân tình thế thái, với thăng giáng lịch sử ấy đã biến tình cảm của con người thành tình cảm của một thời đại. Chỉ có thể từ tình thương yêu, nồng mặn gắn bó máu thịt với cuộc đời thì văn học mới mãi mãi đứng vững. Đó là thiên chức, là chiều sâu của văn học.Viết về cái xấu xa để cảnh tỉnh, báo động giúp con người sống với bản tính tốt đẹp của mình. Viết về cái tốt để nâng đỡ cái thiên lương của con người, để cuộc đời có nhiều công bằng và yêu thương hơn. Có những tác phẩm ríu ran với niềm vui cuộc sống, có những trang văn quằn quại với nỗi đau của cuộc đời. Nhưng tất cả cũng chỉ nhằm mục đích là muốn thắp lên trong mỗi trái tim con người ngọn lửa của tình yêu thương, để một lần nữa chứng minh “thắng lợi của trái tim người trước cái ác.”, để một lần nữa chứng minh, gửi gắm trong văn chương nhiều nhất vẫn là tấm lòng nhân ái, là chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc và bền vững.

Càng hiểu thêm về cái gạch nối hữu cơ giữa văn học và lòng nhân ái, ta lại càng cảm thấy những gì mà mình đã học được chỉ như hạt cát giữa biển văn học mênh mông. Phải có đọc thêm, đọc thêm nữa, ta mới càng thấm thía hơn rằng cuộc đời thực không hề thơ mộng,không lãng mạn, không tuyệt đối, không lí tưởng mà còn biết bao nhiêu trái ngang, bộn bề, nhưng như thế thì nó lại càng đáng quý, đáng yêu hơn. Ta lại càng cảm thấy, mình đã học nghèo nàn biết bao nhiêu về văn chương – một môn học mà nếu thiếu nó thì người ta sẽ trở nên “câm lặng trước thế giới, bất lực trong tình cảm”. Ấy vậy mà, khi kết quả thi được như ta mong đợi, với vài lời nhận xét tốt trong ô điểm, ta đã vội chấp nhận và thỏa mãn, ta có ngờ đâu đó chỉ là sự bắt đầu trên con đường học văn. Văn chương đâu phải chỉ là sự trình bày kiến thức, là một trò chơi trí tuệ, là sự phô diễn chữ nghĩa, là đúc câu luyện chữ. Và ta còn phải học, học nhiều lắm để thật sự viết ra được những dòng văn chương cất từ chất liệu cuộc đời, dùng ngôn ngữ mà nói hộ những tiếng lòng nín bặt, những nỗi đau câm lặng mà nhiều khi một con người suốt đời không thể bày tỏ. Những dòng văn được xây dựng từ lòng yêu thương con người khắc khoải và nồng đượm, để từ đó mà vun đắp cho những giá trị tinh thần chân chính và bền vững.

Và ta biết rằng, nếu một ngày nào đó, bài văn của ta chẳng được ai đếm xỉa, điểm thấp và chỉ toàn lời chê bai, ta vẫn sẽ học văn, sẽ thích văn và vẫn sẽ cầm viết. Bởi vì văn học đã là một món quà. Văn học đã dạy cho ta cách để trái tim mình luôn hướng về tha nhân ngoài kia còn đang chờ đợi ta, văn học đã dạy cho ta cách để đôi mắt luôn lắng dõi cho những số phận bất hạnh hơn ta, dạy cho ta cách lắng nghe tiếng đời đang xao động mỗi ngày, tiếng khóc thầm và tiếng cười hi vọng, dạy cho ta cách dùng tất cả lòng nhiệt thành và sự may mắn ta đã được nhận để quay trở lại kia, quay trở lại với cuộc đời nắng gió và những kiếp người nhọc nhằn lo toan, để giúp đỡ, quan tâm và hỗ trợ.

Và nếu ta cũng không thể viết, nếu trí ta bất lực không thể viết được một tác phẩm ra hồn, thì ta vẫn yêu văn và đọc văn. Bởi vì cuộc đời sao mà chông gai quá và mỗi con người đều đang bước trên những bậc thang chênh vênh. …. Ta chỉ mong sao, với những gì ta học được từ những tiết học văn, với những gì ta đọc được trong những tác phẩm văn học, ta sẽ luôn vin vào những điều tốt đẹp để bước qua được những thiếu sót, những hèn hạ trong bản thân mình. Để hoàn thiện mình mỗi ngày. Để rèn luyện trở thành một người tốt. Một người biết mang lại niềm vui. Một người có ích cho cuộc đời. Một người hành động vì tình thương. Một người hiểu hơn điều gì hết, rằng: học văn, trước tiên là học viết một từ ghép tuyệt đẹp “Nhân ái”.

Nghị luận xã hội: Văn học và tình thương mẫu 10

Con người trong cuộc sống này muốn sống tốt thì ngoài vấn đề về tiền bạc ra còn một vấn đề nữa cần phải bận tâm đó chính là tình thương. Thật khó để ai đó có được một cuộc sống hạnh phúc nếu như họ sống thiếu đi tình yêu thương. Văn học lại là sự phản ánh cuộc sống thông qua câu chữ. Do vậy mà chúng ta vẫn thấy văn học đề cao tính nhân văn, giá trị nhân đạo, đề cao quyền sống và quyền được yêu thương của con người. Nói một cách dễ hiểu thì giữa văn học và tình thương có một sự đồng nhất.

Tình thương đó chính là thứ tình cảm xuất phát từ sự chân thành trong trái tim của con người. Nhờ có tình thương mà con người sống trong xã hội trở nên gắn kết với nhau hơn. Họ từ những con người xa lạ đã đồng cảm với nhau, thương mến nhau bởi một lý do nào đó mà đôi khi chính người trong cuộc cũng không rõ. Tình thương nói một cách rộng hơn đó chính là sự bác ái, là truyền thống lá lành đùm lá rách, lá rách ít đùm lá rách nhiều. Truyền thống tốt đẹp ấy đã có từ xa xưa và vẫn được con cháu ngàn đời sau lưu giữ.

Văn học của nước ta từ thời khởi thủy với văn hóa dân gian truyền miệng cũng đã truyền tai nhau những câu tục ngữ, ca dao nói về tình thương giữa con người với con người chẳng hạn như:

Bầu ơi thương lấy bí cùng

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn

Hay như câu:

Anh em như thể tay chân
Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần

Chẳng phải vô duyên vô cớ mà người xưa lại dạy chúng ta phải biết yêu thương, đùm bọc lẫn nhau. Trong truyền thuyết Con rồng cháu tiên, chúng ta được biết người Việt Nam vốn là anh em cùng một nhà do Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra. Đã là anh em một nhà thì việc yêu thương nhau là điều dễ hiểu. Rồi đến khi đất nước ta rơi vào cảnh lầm than, chiến tranh, đói khổ, biết bao con người đã rời xa quê hương của mình để lên đường ra chiến trận. Những chiến sĩ đã vào sinh ra tử, kề vai sát cánh bên nhau và trở thành những người đồng chí. Văn học đã ghi lại một cách chân thực tất cả những điều ấy. Chúng ta có thể thấy được tình đồng chí quý báu thông qua bài thơ Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu. Có thể thấy được tình thương yêu giữa quân và dân thông qua bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu. Sống trong thời bình, chúng ta lại thấy tình thương giữa những người đồng mình thông qua bài thơ Nói với con của nhà thơ Y Phương, thấy được tình thương của anh em trong một nhà thông qua Cuộc chia tay của những con búp bê,… Và còn rất nhiều tình thương nữa vẫn được thể hiện trong văn chương qua mỗi tác phẩm.

Văn học không chỉ nói đến tình thương mà văn học còn phê phán xã hội, phê phán những kẻ đã nhẫn tâm chà đạp lên tình yêu thương của con người. Văn học của thời kỳ chống Mỹ, chống Pháp phê phán những kẻ xâm lược đã ngang nhiên cướp đi cuộc sống tự do của chúng ta. Chúng chà đạp con người, bắt những người thân phải xa cách nhau, giết hại biết bao nhiêu sinh mạng vô tội. Như trong tác phẩm Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, chúng ta đã thấy được tội ác của quân thù, đồng thời cũng thấy được ý chí sục sôi trong lòng người chủ tướng.

Văn học còn phê phán những kẻ thiếu tình thương với chính người thân yêu của mình. Có những con người sinh ra đã thiếu thốn tình thương của gia đình. Đó là Em bé bán diêm sống với người cha nghiện ngập suốt ngày chỉ biết đánh chửi em. Chính sự tàn nhẫn của người cha đã đẩy em bé bán diêm rơi vào bước đường cùng là chết trong cái giá lạnh của mùa đông. Văn học cũng phê phán những kẻ độc ác ngoài xã hội. Đó là vợ chồng Nghị Quế trong tác phẩm Tắt đèn của nhà văn Ngô Tất Tố, đó là những con người vô cảm khi dửng dưng với em bé bán diêm.

Đối với bản thân mình em luôn xem văn học là sợi dây gắn kết yêu thương. Đọc mỗi một tác phẩm, em đều cảm nhận được tình thương của tác giả gửi gắm trong đó. Em nhận ra được những giá trị nhân đạo cao đẹp thông qua các tác phẩm. Để rồi từ đó, em tự soi xét lại bản thân mình, tự hoàn thiện mình để trở thành con người sống có cảm xúc, có yêu thương.

Cùng với trangtailieu.com để biết thêm nhiều bài văn mẫu về dạng đề nghị luận với chủ đề văn học và tình thương hay và thu hút nhé! Đừng quên theo dõi chúng tôi để cập nhật thêm nhiều kiến thức học tập hữu ích khác, chúc các em học tốt.