Docly

#10 phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo được đánh giá cao nhất

phân tích khổ 2 bình ngô đại cáo

Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo trong bài viết sau đây của Trang Tài Liệu sẽ là tài nguyên học tập bổ ích cho các bạn bao gồm dàn ý phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo và các mẫu phân tích Bình Ngô đại cáo đoạn 2 hay nhất.

Đại cáo bình Ngô là bản anh hùng ca bất hủ của dân tộc Việt Nam. Bản cáo này do Lê Lợi giao cho Nguyễn Trãi viết ngay sau khi dẹp xong quân Minh, cuối năm 1427. Tác phẩm nêu cao chủ nghĩa yêu nước, ca ngợi cuộc chiến đấu vì độc lập dân tộc, vì đạo lí chính nghĩa. Thể hiện tinh thần nhân đạo, quan niệm sức mạnh vô địch là bắt nguồn từ “chí nhân”, “đại nghĩa”, từ nhân dân.

Dàn ý đoạn 2 bình ngô đại cáo

Dàn ý mẫu 1

1. Mở bài

Phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo

  • Giới thiệu sơ lược về tác giả,tác phẩm, đoạn cần phân tích
  • Nêu qua hoàn cảnh lịch sử tạo nên tác phẩm

2. Thân bài

Phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo

Có thể khẳng định đoạn đầu là tư tưởng nhân nghĩa mới mẻ là cơ sở để khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc. Tư tường này xuất phát từ thực tiễn tình hình của đất nước được Nguyễn Trãi khái quát sâu sắc như một chân lý. Chân lý đó khẳng định nhân nghĩa chính là chống quân xâm lược, có như vậy mới vạch trần được luận điệu xảo trá của chúng được tác giả nêu lên ở đoạn hai. Đoạn hai của tác phẩm là bản cáo trạng về tội ác của Giặc Minh. Tố cáo những chủ trương cai trị tàn sát của giặc Minh:

  • Tàn sát người vô tội
  • Bóc lột dã man, đánh thuế, phu phen,…
  • Hủy diệt cả môi trường sống

⇒ Tội ác tày trời, một lũ giặc vô nhân đạo

– Có những tội ác của kẻ thù thì cái nhân nghĩa mà tác giả đưa ra mới càng thể hiện được tính đúng đắn của nó. Bởi lẽ:

  • Độc lập chủ quyền của chúng ta có tính chất thiên nhiên, từ trước, vốn có
  • Khẳng định chủ quyền như bao dân tộc khác là chúng ta có phong tục riêng, lịch sử riêng, hào kiệt trước này chưa bao giờ thiếu.
  • Nền văn hiến của ta thì đã có từ hàng ngàn năm lịch sử: đây là yếu tố cơ bản để xác định chủ quyền dân tộc. Bất kể quân xâm lược nào cũng đều tìm cách để phủ định sự thật hiển nhiên này.

– Nguyễn Trãi đã vạch trần luận điệu bịp bợm của giặc và chỉ rõ âm mưu cướp nước ta của chúng. Chúng lược chiêu bài “Phù Trần diệt Hồ” nhưng thực chất là để cướp nước ta

– Tội ác mà chúng gây ra với chúng ta là vô cùng độc ác và dã man.

– Trước nỗi khổ, sự khó khăn cùng cực của nhân dân, tác giả vô cùng đau đớn, cả bài là sự căm giận tội ác của địch, đồng cảm và xót xa trước những đau thương mà nhân dân ta phải chịu đựng.

-Nghệ thuật so sánh: Tội ác của giặc cao tựa núi Nam Sơn; sự dơ bẩn của giặc nhiều bằng nước Đông Hải. Dùng cái vô hạn nói cái vô hạn, tội ác của chúng những cái vô cùng cũng không thể miêu tả, không thể chứa đựng được hết.

3. Kết bài

Phân tích đoạn 2 của bình ngô đại cáo

  • Nêu lại khái quát ý nghĩa của tác phẩm và cảm nhận của bản thân
  • Khẳng định lại tội ác không thể chối cãi của giặc Minh và sự tài tình của Nguyễn Trãi trong việc vạch tội kẻ thù khẳng định chủ quyền cho dân tộc

Dàn ý phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo – Mẫu 2

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả tác phẩm, vị trí đoạn trích

2. Thân bài

Có thể khẳng định, đoạn một là tư tưởng nhân văn mới làm cơ sở khẳng định độc lập, chủ quyền dân tộc. Tư tưởng này xuất phát từ tình hình đất nước được Nguyễn Trãi khái quát sâu sắc như một chân lý. Chân lý đó khẳng định nhân loại đang chiến đấu chống quân xâm lược và chỉ khi đó chúng mới vạch trần được luận điệu lừa bịp mà tác giả đưa ra ở đoạn 2. Đoạn 2 của tác phẩm là bản cáo trạng tội ác của Giặc Minh. Tố cáo ách cai trị tàn bạo của nhà Minh:

Tàn sát người dân vô tội
Khai thác, đánh thuế, bóc lột dã man, v.v.
Phá hủy toàn bộ môi trường
⇒ Tội ác ghê tởm, lũ giặc dã man

Có những tội ác của kẻ thù thì cái nhân nghĩa mà tác giả đưa ra mới càng thấy rõ được tính đúng đắn của nó. Bởi lẽ:

Độc lập chủ quyền của chúng ta là quyền thiêng liêng, có trước, không thể thay đổi

Khẳng định chủ quyền của mình như bao dân tộc khác là chúng ta có phong tục riêng, lịch sử riêng, xưa nay chưa bao giờ thiếu.
Nền văn hiến của chúng ta có hàng nghìn năm lịch sử: đây là yếu tố cơ bản để xác định chủ quyền quốc gia. Bất kỳ kẻ xâm lược nào cũng sẽ tìm cách phủ nhận sự thật hiển nhiên này.

Nguyễn Trãi vạch trần thủ đoạn của giặc, vạch trần âm mưu cướp nước của chúng. Chúng lấy chiêu bài “phù Trần diệt Hồ” nhưng thực chất là cướp nước ta

– Tội ác mà chúng gây ra đối với chúng ta là hết sức man rợ và dã man.

– Trước những đau khổ, gian khổ của nhân dân, tác giả vô cùng đau xót, toàn bài căm phẫn trước tội ác của giặc, đồng cảm, xót xa trước những đau khổ mà nhân dân ta phải chịu đựng.

Nghệ thuật so sánh: Tội ác của giặc cao như núi Nam Sơn; Sự nhơ nhớp của giặc nhiều như nước Đông Hải. Dùng cái vô cùng để nói cái vô cùng, tội ác của chúng cũng thật khôn lường, không thể chứa nổi.

3. Kết bài

Đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật

Sơ đồ tư duy đoạn 2 Bình Ngô đại cáo

sơ đồ tư duy phân tích khổ 2 bình ngô đại cáo

Mẫu phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo

Mẫu bài văn phân tích 1

“Bình Ngô Đại Cáo” là tác phẩm nổi tiếng của nhà văn, nhà chính trị Nguyễn Trãi. tác giả soạn thảo bài cáo này vào mùa xuân năm 1428, để thay mặt Lê Lợi tuyên bố thắng lợi quân Minh xâm chiếm. Bản cáo trạng không chỉ khẳng định độc lập, chủ quyền của Đại Việt mà còn là bản án đanh thép, lên án tội không thể dung thứ của bè lũ bán nước, cướp nước. Cùng phân tích đoạn 2 của Bát Đại Ngô Đồng để thấy rõ hơn nhé!

Đoạn một, tác giả hãnh diện, hãnh diện, tuyên bố với thế giới và thế giới về lịch sử hào hùng dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Ông khẳng định chủ quyền văn hóa, lãnh thổ của Nam Bắc triều, mỗi bên mạnh một phương. Ông tin rằng thiên tài ở khắp mọi nơi, mọi lúc. Tại sao lại xâm chiếm và cướp phá lẫn nhau? Nhờ lối dẫn đó, sang đến đoạn hai, tác giả trình bày ngay nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến tranh giữa Đại Việt và nhà Minh:

“Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây loạn
Bọn bạo ngược còn bán nước cầu vinh”

Đi sâu vào tìm hiểu đoạn 2 Có thể thấy rõ, chỉ qua 5 câu thơ thoáng qua thôi nhưng nhà văn đã diễn tả được toàn cảnh bức tranh xã hội rối ren lúc bấy giờ. Đó là những thủ lĩnh, người đứng đầu việt nam đang bị thôn tính, nhu nhược, tham lam, chia bè phái khiến nhân dân oán hận. Trong khi đó, giặc Minh rình rập lâu ngày bên ngoài, nhân cơ hội gây loạn. Chính sự hỗn loạn phối hợp với các phe phái bán nước và cướp nước đã đặt Đại Việt vào thế cân bằng. Nguyễn Trãi là một nhà chính trị nên những phân tích của ông rất sắc bén và hợp lý.

Bài thơ này đã bộc lộ rõ âm mưu xâm chiếm của giặc Minh và bọn tàn ác bán nước cầu vinh.

Vì thế Đại Việt lâm nguy. Bọn bán nước, cướp nước ra sức hành hạ dân đen, gây bao tội lỗi. Sau khi đánh chiếm nước ta, quân Minh xâm lược Đại Việt trong hai mươi năm với những chính sách vô cùng hà khắc và tàn bạo.

“…Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai ương
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi”.

Chứng kiến cảnh thương tâm của người dân, nhà chính trị nhân từ Nguyễn Trãi đã khẳng định tội ác của quân giặc là “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời”. Đoạn thơ dường như vừa nói lên nỗi lòng đau đáu vì nước của tác giả, vừa như những lời đay nghiến thù địch. Sự tàn bạo của họ không còn do con người viết nữa. Dối trời, dối dân. Chúng không chỉ bóc lột của cải, sức người mà còn tàn phá môi trường, tận diệt sâu bọ, cây cỏ. Hơn nữa, chúng đã trực tiếp tàn sát những người da đen, những nhân dân lành vô tội ác. nhân dân quanh năm gắn bó với ruộng đồng, hiền hậu, đức độ. Vậy mà họ chà đạp không tha. Bằng một loạt liệt kê, kể liên tiếp những tội lỗi của thù địch, tác giả như trút được bao cảm xúc căm giận, căm thù. Cảm xúc đó cũng là cảm xúc chung của toàn dân Đại Việt lúc bấy giờ. Chỉ muốn vùng lên đối đầu, chống lại thù địch.

lý luận đoạn 2 Đại cáo, ta càng thấy sự tài tình trong việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật văn chương của Nguyễn Trãi. Ông đã dùng phép nhân hóa suy đoán để vạch trần tội lỗi tày trời của bọn cướp. Nếu sống giữa thời đó, lớn lên trong ách gian ác ấy mới thấy rõ quân giặc không khác gì súc vật, coi mạng người như rác rưởi.

lý luận đoạn 2 của Cựu ước là lúc độc giả cảm thấy rùng mình trước cảnh tang tóc của nhân dân Đại Việt xưa. Tưởng chừng chỉ là một cảnh trong phim cổ trang, nhưng hóa ra lại là chân lý hiển nhiên, được lịch sử chấp nhận.

“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha”

Sự tàn ác man rợ của quân xâm nhập không chỉ làm cho nhân dân thương xót mà còn căm giận cả tự nhiên, cả biển cả cũng không thể gột rửa được mùi nhơ nhớp, đất trời cũng không chịu nổi. Với việc sử dụng phép đối xứng “ác”, “cây tre Nam Sơn – nước Đông Hải”, “lòng trời đất”… nhà văn như càng điểm nhấn thêm sự sai trái của cuộc chiến tranh phi nghĩa. Anh cũng đem ra những đồ vật vô tri, vô giác để khẳng định việc xen vào đời sống của người khác là tội ác không thể tha thứ. Ông càng chứng minh rằng, không chỉ con người mà mọi sinh vật sinh ra trên đời đều có quyền sống.

Có thể nói, khi phân tích đoạn thứ hai, người đọc như đang xem một bộ phim lịch sử thấm đẫm máu và nước mắt. Có những nỗi đau, mất mát của dân tộc mà không gì có thể bù đắp được. Nhưng độc giả cũng có thể cảm nhận được sự mạnh mẽ, bất khuất của người dân Đại Việt. Bằng ngôn từ kiên cường, hùng hồn, trôi chảy trong từng câu chữ, khung cảnh, nhà chính luận Nguyễn Trãi một lần nữa kiên cường lên án tội của kẻ thù.

Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo – Mẫu 2

“Văn học không phải là cách đưa người đọc thoát ly hay lãng quên; Ngược lại, văn học là thứ vũ khí cao cả và mạnh mẽ mà chúng ta có, vừa để tố cáo vừa để thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác.” (Thạch Lam). Đúng vậy, văn học là cánh tay đắc lực của mỗi giai đoạn lịch sử, để vạch trần bộ mặt giả dối của xã hội, lên án các thế lực bạo tàn, với tư cách đó là bản hùng ca cổ đại “Bình Ngô đại cáo” ở đoạn 2 đã phơi bày tội nhơ nhớp của quân xâm chiếm mà bao năm sau cũng không thể gột rửa hết.

Văn chính luận của Nguyễn Trãi đều là những lớp từ, lớp ngữ sắc sảo, trình tự lập luận logic, ngay cả khi luận tội quân xâm nhập, mạch lý luận vẫn hết sức sắc bén, minh bạch. Đầu tiên, nhà thơ chỉ ra những động cơ thâm độc và thói đạo đức giả của kẻ thù:

“…Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh…”

Ngay từ những câu thơ mở đầu này, độc giả có thể thấy ngay âm mưu bất thành của thù địch, đồng thời vạch trần bộ mặt giả dối, âm mưu thâm độc của giặc xâm lược. Chúng dùng thủ đoạn xâm chiếm “phù Trần diệt Hồ” với con bài chính Trần Thiêm Bình nhằm mua chuộc quý tộc nhà Trần về phe chúng đô hộ nước ta. Chính sách của họ đầy dối trá và lừa lọc:

“Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm”

Nhờ ngôn từ sắc sảo, nhạy bén của Nguyễn Trãi ta mới nhận ra được bộ mặt bất nhân, vô nhân tính đằng sau những âm mưu thâm độc của chúng, tiếc thay công lí không bao giờ đứng về phía bọn phi nhân, tội của chúng trời đất không dung thứ:

“Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi”

Nhưng đau đớn hơn, là tội mà họ đã gây ra cho dân tộc, cho những người dân đỏ đen đầy ngậm ngùi. Dưới ngòi bút sắc sảo của nhà thơ Nguyễn Trãi, chưa bao giờ hình ảnh con người hiện lên chua xót, cay đắng và đầy căm phẫn đến thế:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ…”

Dân đen, con đỏ”, những con người lương thiện, quanh năm làm ăn khó nhọc, một lòng gắn bó với tấc đất, nhà cửa, ruộng vườn để không bị giày xéo dưới gót giày bẩn thỉu của chúng. khung cảnh nhân hóa cũng như bút pháp tả đầy dấu ấn của Nguyễn Trãi đã một lần nữa vạch trần tội ác man rợ, tàn bạo của quân xâm nhập lúc này là đội quân điên cuồng, cuồng tín mơ hồ về lẽ đời con người như rác rưởi, sẵn sàng chà đạp, chà đạp, ăn thịt, uống máu người không tanh. tội của chúng, ngàn năm sau, sử sách còn để lại, trời không dung đất. Không dừng lại ở đó, quân Minh xâm lược còn ra sức cướp đoạt của cải, sản vật quý hiếm của nước Nam để thỏa mãn nhu cầu vật chất, thú vui xa xỉ, xa hoa, đồi trụy của chúng bằng cách ép buộc, cướp phá, đe dọa người Việt phải săn lùng sản vật để cống nộp, cuộc sống bị đày đọa đến cùng cực:

“…Những người bị bắt xuống biển để tìm ngọc trai, mệt mỏi vì cá mập,

Những kẻ bị đưa vào núi đào vàng, khốn khổ vào rừng sâu nước độc:

Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi đặt cạm…”

Thủ pháp liệt kê được sử dụng đặc biệt trong trường hợp này, như để tôn vinh, như để tô điểm thêm cho trang sử tội lỗi đẫm máu, nhơ nhớp của bọn cường hào không bằng cầm thú thời bấy giờ. ngòi bút mô tả, như thấy được sự rạo rực, căm giận, bức bách của tác giả khi nghĩ đến cảnh con người bị giày xéo, bị giày xéo dưới gót giày dã man, tàn ác của quân thù.

Bằng ngôn từ cương trực, hùng hồn thấm nhuần trong từng câu thơ, mạch chảy của bài thơ, một lần nữa Nguyễn Trãi đã vạch trần sâu đậm và thể hiện bản chất bất nhân, bất nghĩa, tàn ác của quân xâm lược.

Trên đây là toàn bộ thông tin và mẫu bài văn phân tích khổ 2 Bình Ngô đại cáo mà Trang Tài Liệu đã tổng hợp và gửi đến các em học sinh. Ngoài ra, bạn có thể đọc thêm các bài viết liên quan ngay dưới đây