Chất thơ là gì? Khám phá chất thơ trong tác phẩm văn học
Trong sáng tác văn học nghệ thuật, chất thơ được xem như một đặc tính quan trọng đem lại sự cuốn hút kì diệu cho hình tượng nghệ thuật và tác phẩm. Chất thơ biểu hiện ở cái đẹp của ngôn ngữ và âm điệu, cái đẹp của cảm xúc và ý tưởng… Vậy chất thơ là gì mời bạn cùng tìm hiểu khái niệm thú vị này thông qua bài viết dưới đây của Trang Tài Liệu.
Mục lục
Chất thơ là gì?
“Chất thơ” hay còn gọi là “chất trữ tình”, hay “thi vị” tức là có tính chất gợi cảm và gây hứng thú trong thơ. “Chất thơ” có thể hiểu là một khía cạnh của cảm hứng thẩm mĩ nhân văn, phải gắn với cái đẹp. Cái đẹp có thể là do tự nhiên mang lại như cảnh mây trắng nhởn nhơ bay trên bầu trời xanh thẳm, tạo ra cảm giác dễ chịu cho người ngắm nhìn. Hoặc, “chất thơ” cũng có thể tạo ra từ những tình cảm, hành động của con người như: “Sự nhớ nhung, sự uyển chuyển của các điệu múa…” (Đỗ Lai Thúy).
Chất thơ chính là sự khám phá cuộc sống bằng nghệ thuật đa dạng, độc đáo đem lại vẻ đẹp và xúc động tâm hồn cho người đọc. Thông thường người ta cho rằng chất thơ là một thuộc tính chỉ riêng thơ mới có. Nhưng thực ra chất thơ có thể tìm thấy trong cả những thể loại văn học khác như văn xuôi ( tiểu thuyết, truyện ngắn, tản văn….), kịch… Chất thơ được tạo nên từ những hình ảnh đẹp, giàu sức biểu cảm, từ những ngôn từ giàu nhạc điệu, bay bổng thanh thoát….Vậy là “cái chất trữ tình bay bổng, diệu kì của hình ảnh, âm điệu, ngôn ngữ…vốn là của thơ ca, đến một lúc nào đó lại có thể tìm thấy trong hầu hết các thể loại”.
Biểu hiện chất thơ trong tác phẩm văn học.
Tác phẩm văn chương chính là sự thẩm thấu của nhà văn về cái đẹp trong cuộc sống và nghệ thuật. Người ta thường nói đến chất thơ trong tác phẩm văn học và trong đời sống. Khi nói đến chất thơ là nói đến nhân tố thuộc nội dung, chất thơ có thể nằm đây đó trong cuộc sống ở những mặt kết tinh tiêu biểu, hoặc ở trong văn xuôi. Nói một tác phẩm văn xuôi có chất thơ tức là những ý văn, câu văn, đoạn văn tạo nên sự rung cảm trước cái đẹp của thiên nhiên, cuộc sống con người và nó có khả năng truyền những rung cảm ấy đến với người đọc. Ở văn xuôi, “chất thơ” có ở trong nhiều cấp độ: từ ngữ; bức tranh thiên nhiên; hình tượng nhân vật vượt lên trên thực tại của đời sống, của hoàn cảnh để hướng đến vẻ đẹp của nhân cách, tâm hồn. Nhưng nói như thi hào Huy Gô, chất thơ bộc lộc một cách diễn cảm, mầu sắc qua cấu trúc của ngôn ngữ thi ca.
Trong đời sống hàng ngày, khi nói đến chất thơ thường có thói quen nghĩ đến cái gì đẹp, thơ mộng, lí tưởng, bay bổng như một khung cảnh thiên nhiên thơ mộng, sơn thủy hữu tình, một người con gái đẹp, một tâm hồn lãng mạn. Người ta ít nghĩ hơn đến chất thơ trong những cảnh đời lam lũ, mệt nhọc hay những cảnh tượng bề bộn, tăm tối. Quan niệm trên dường như đã trở thành một thói quen trong cảm nghĩ của nhiều người, tuy có phần đúng nhưng chưa đủ. Cần thấy rằng có đối tượng nên thơ và đối tượng không nên thơ, biết phát hiện ở đối tượng khách quan phần nên thơ của nó, cung cấp cho nó một dáng hình, một cách giải thích, một lí tưởng đẹp. Đó là nhiệm vụ chung của nghệ thuật và trực tiếp của thi ca.
Khác với chất thơ trong đời sống thường được quan niệm như một cái gì đẹp, thơ mộng, tồn tại khách quan, chất thơ trong nghệ thuật bao gồm sự thống nhất giữa những phẩm chất của đối tượng khách quan với cảm hứng sáng tạo chủ quan của nhà thơ. Thực tế khách quan được chọn lọc ở những mặt kết tinh tiêu biểu, ở những chi tiết, hình ảnh chân thực là tiền đề trực tiếp để tạo nên chất thơ, chính hiện thực phong phú đó có tác dụng gây cảm xúc và góp phần biểu hiện thành cảm xúc thẩm mỹ. Nhưng nhân tố quan trọng hơn cả để tạo nên chất thơ chính là phần cảm xúc và suy nghĩ chủ quan của người nghệ sĩ. Những hình tượng thơ ca chân chính đều chứa đựng một lí tưởng đẹp, một sức tưởng tượng phong phú và những cảm xúc lắng đọng sâu sắc. Chất thơ là một phẩm chất tổng hợp được tạo nên từ nhiểu nhân tố. Những nhân tố này cũng có thể có trong nội dung cấu tạo của các thể loại khác, nhưng ở thơ biểu hiện tập trung hơn và được hòa hợp, liên kết một cách vững chắc tạo nên những phẩm chất mới.
Xác định chất thơ là một vấn đề khó, rất khó. Đúng như nhà văn Nguyễn Tuân nhận xét “Định nghĩa về chất thơ cho thật chính xác và toàn thập, tôi thấy nó cúng khó như định nghĩa cho chất uymua” (humour). Nhưng khi chúng ta quan niệm “thơ không phải là cái gì thần bí, siêu việt, thơ gắn liền với cuộc sống, với tâm hồn con người và năng lực sáng tạo của người nghệ sĩ thì việc tìm hiểu chất thơ lại là cần thiết và quan trọng để làm cơ sở lí luận đi vào địa hạt thơ ca.”
Chất thơ trong tác phẩm văn học trước hết gắn liền với sự rung động và cảm xúc trực tiếp. Nếu xem bản chất giàu cảm xúc là một năng lực tinh thần thuộc về bản chất của người nghệ sĩ thì điều đó trước hết phải có ở người thi sĩ, Nói như Xuân Diệu:
“Là thi sĩ nghĩa là ru với gió.
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây
Để linh hồn ràng buộc với muôn dây”
Cảm xúc là nhân tố quan trọng tạo nên hình tượng. Có nhiều cách để tạo nên cảm xúc như qua miêu tả hình ảnh, hoặc qua liên tưởng, so sánh hoặc qua nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Nhưng điều quyết định chính là ở tấm lòng vì “thơ là tiếng lòng” (Ngô Giang Tiệp) “Thơ từ trái tim đi và trở về với trái tim” (Worthworth).
Chất thơ trước hết là ở tấm lòng nhưng chất thơ cũng bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống muôn màu. Một bức tranh thiên nhiên, một khung cảnh lao động của con người, hay một cảnh đời lam lũ…. Cũng là tiền đề làm nên vẻ đẹp nên thơ của tác phẩm văn học. Trong tác phẩm văn học nhất là trong thơ có nhiều câu được cấu tạo nên chủ yếu bằng cảm xúc, bằng thuần túy chất liệu của tâm hồn
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”.
(Tố Hữu)
Tuy nhiên, những cảm nghĩ của nhà thơ phải lấy điểm tựa ở phần hiện thực được chọn lọc. Trong thơ rất cần đến những bức tranh về đời sống hiện thực.Tuy nhiên hiện thực đời sống đi vào trong thơ không theo diện mà theo điểm. Những hình ảnh tiêu biểu nhất được chọn lọc để miêu tả và sẽ được liên kết trong nhận thức và liên tưởng của người đọc thành những bức tranh giàu sức sống, sinh động và chân thực. Đó là phần tiêu biểu của hiện thực, cái tính chất được chọn lựa, chắt lọc ra từ đời sống và sẽ trực tiếp tạo thành chất thơ. Do đó, chất liệu và hình ảnh của đời sống hiện thực chỉ có giá trị thơ khi nó có tính chất tiêu biểu, điển hình và có khă năng gây xúc cảm. Đó là một quy luật chi phối rõ rệt đến việc sáng tạo hình ảnh trong thơ. Có thể chỉ một hình ảnh vẫn có sức gợi cảm mạnh mẽ khi nó kết tinh được nhiều sự sống. Cuộc sống được nói lên bằng hình ảnh và tâm trạng cũng bộc lộc kín đáo đằng sau những hình ảnh được miêu tả như có vẻ khách quan. Hiện thực ở những nét tinh chất đều có tác dụng gây cảm xúc mạnh mẽ và có khẳ năng nói lên nhiều mặt tiêu biểu của đời sống. Chính đó là tiền đề của chất thơ và nhiều khi bản thân nó là chất thơ cô đọng.
Chất thơ gắn liền với trí tưởng tượng, trí tưởng tượng là năng lực của tư duy góp phần rất tích cực vào hoạt động nhận thức của con người, đặc biệt là nhận thức nghệ thuật. Trí tưởng tượng là một đường dây nối liền những hiện tượng tưởng như riêng rẽ, cách biệt nhau thành một nguồn mạch thống nhất. Trí tưởng tượng chắp cánh cho tâm hồn bay lên vượt khỏi những giới hạn xác định của một địa điểm và thời điểm cụ thể mà trở về với quá khứ, sống trong ước mơ với tương lai. Trí tưởng tượng là một động lực tinh thần quyết định giờ phút nhổ neo cho con thuyền tìm về những mảnh đất xa xôi và những bến bờ xa lạ, ở đấy một giấc mơ có khả năng trở thành một sự thực. Tưởng tượng cũng chính là them vào cái có thật phần nên có và sẽ có, là sự chuẩn bị tích cực cho một hành động sáng tạo và bản thân nó là một sự sáng tạo.
Nói đến thơ ca là nói đến sức tưởng tượng. Nhà thơ Sóng Hồng đã chỉ ra đặc điểm quan trọng này của thơ “Thơ là nghệ thuật kì diệu bậc nhất của trí tưởng tượng”. Apooline đã có lí khi nhận xét: “Cái lĩnh vực phong phú, ít được biết đến nhất, cái lĩnh vực có một chiều rộng không ngờ là tưởng tượng, vì vậy không có gì lạ nếu người ta đã dành danh hiệu nhà thơ chủ yếu cho những người đi tìm những niềm vui mới rải rác trên những không gian đồ sộ của tưởng tượng”.
Chất thơ cũng gắn liền với cái đẹp. Thơ không phải chỉ nói đến cái đẹp trong cuộc sống mà nói về cuộc sống với một lí tưởng đẹp. Không phải ngẫu nhiên Etgapô cho rằng: “Cái đẹp là địa hạt hợp pháp của thơ ca”. Còn Bô-đơ-le xem thơ là “ước mong của con người vươn tới một cái cao đẹp cao thượng”. Chúng ta có thể kể thêm nhiều quan niệm khác và cách nói nhiều khi thiếu mức độ và quá đi như quan niệm của Seli: “Thơ ca biến mọi vật thành đẹp, nó làm tăng vẻ đẹp của những cài gì đẹp nhất, nó đem lại vẻ đẹpcho những cái gì xấu xí nhất”. Cái đẹp là phẩm chất và cũng là quy luật chung của sự nhận thức và sáng tạo trong nghệ thuật.
Toàn bộ những phẩm chất trên hợp thành chất thơ trong sáng tạo của nghệ thuật. Chất thơ của mỗi nhà thơ được hình thành với những đặc điểm riêng do trình độ và năng lực tinh thần, do hoàn cảnh từng cá nhân qui định. Có thể thông qua thành phần cấu tạo của chất thơ mà tìm hiểu những mặt nhất định của phong cách thơ của từng tác giả. Cái đẹp trong thơ là sự thống nhất thẩm mĩ giữa những phẩm chất của thực tại khách quan với cái đẹp trong tâm hồn người nghệ sỹ. Do đó, tuy có nhiều quan niệm khác nhau về chất thơ trong văn học nhưng có thể tổng hợp các ý kiến đó trong cách hiểu sau: “Với trí tưởng tượng phong phú và những rung động sâu xa của tâm hồn, nhà thơ phản ánh hiện thực xã hội và tâm trạng con người thông qua hệ thống những cảm nghĩ và những hình ảnh tiêu biểu cho đời sống trên cơ sở của ngôn ngữ gợi cảm chọn lọc và giàu nhịp điệu”. Chất thơ trong tác phẩm văn học tạo nên nguồn cảm hứng lãng mạn, khẳng định “cái tôi” đầy tình cảm, cảm xúc hướng tới lí tưởng. Chính cảm hứng lãng mạn đã nâng đỡ con người vượt lên hiện thực khổ đau, đen tối, gian khổ để hướng tới một tương lai tươi sáng. Cảm hứng lãng mạn trở thành cảm hứng chủ đạo không chỉ trong thơ mà còn còn trong nhiều thể loại văn học khác để người ta có thể nói tới chất thơ của nó.
Biểu hiện chất thơ trong văn xuôi
*Về phương diện nội dung:
-Xác định thế giới nhân vật nào là chủ đạo?
-Nhân vật trung tâm được biểu hiện chủ yếu trong cảnh nào/ hay toàn bộ tác phẩm là những cung bậc tâm trạng (không phải là nhwunxg hành động).
-Cả cảnh và tình trong mỗi trang văn đều toát lên một vẻ đẹp rất riêng, giàu tính biểu cảm, gợi nhiều cảm xúc ở người tiếp nhận.
+Thiên nhiên
+ Cuộc sống con người.
*Về phương diện nghệ thuật:
-Tìm hiểu câu văn, cách dùng và tạo ra kiểu câu văn nghue thế nào (Ví dụ: câu văn “Chiều, chiều rồi, một chiều êm ả như ru,…”. Câu văn có tín hiệu “chiều” rất đặc biệt, nếu chỉ là tín hiệu nghĩa của văn xuôi người ta sẽ chỉ cần một chữ “chiều”, vậy 3 chữ “chiều” xếp đặt cạnh nhau, nó tạo ra chất thơ, nhịp thơ)
-Nghệ thuật chủ đạo của địa hạt thơ đã được sử dụng chủ yếu trong văn xuôi như thế nào? Ở cảnh nào? (Ví dụ: lấy động tả tĩnh, lấy sáng tả tối,… được sử dụng chủ yếu trong truyện Hai đứa trẻ như thế nào?).
-Từ ngữ, giọng điệu, nhịp điệu giàu chất thơ như thế nào?
Luyện tập chất thơ trong văn học
Đề 1.
Có ý kiến cho rằng: “Nghệ thuật truyện ngắn là sự kết hợp giữa các phương thức biểu đạt của ngôn ngữ thơ ca và ngôn ngữ điện ảnh”. Anh (Chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua truyện ngắn trong chương trình lớp 11 hoặc 12.
Hướng dẫn:
Lđ 1: Giải thích
-Truyện ngắn phải mang dấu ấn của thi pháp thơ ca, đó là cấu trúc chặt chẽ, có tiết tấu, nhịp độ nhanh, chậm, độ căng lớn.
– Đặc điểm của ngôn ngữ điện ảnh:cần chú ý tới nghệ thuật dàn cảnh và nghệ thuật kịch bản của điện ảnh để làm sống động sự việc và nhân vật. Nói cách khác trong truyện phải có yếu tố kịch tính được tạo nên bởi sự triển khai mâu thuẫn, xung đột trong cốt truyện; truyện phải xây dựng được nhân vật chính rõ nét. Để tái hiện mâu thuẫn, xung đột và xây dựng nhân vật, nhà văn phải chọn lọc được những chi tiết đắt giá, có khả năng dựng cảnh để chuẩn bị môi trường trực tiếp cho nhân vật hoạt động và có thể gián tiếp miêu tả tâm lí nhân vật…
=>Ý kiến đề cập về đặc điểm của nghệ thuật viết truyện ngắn, một thể loại văn học rất năng động. Ở đó có thể nhận thấy sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau giữa các thể loại văn học làm cho thể loại truyện ngắn trở nên phong phú vừa có chất của thơ ca, vừa có chất của kịch (điện ảnh) nhưng nó không phải là thơ hay kịch (điện ảnh)
Lđ 2. Chứng minh:
*Kết cấu ngắn gọn của “Chí Phèo”
Dù nội dung truyền tải lớn- bức tranh nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám – nhưng tất cả những “giông tố” trong làng Vũ Đại lại chỉ được thể hiện trong một truyện ngắn. Vì vậy, có những sự việc nhà văn chỉ kể lướt, có những nhân vật nhà văn chỉ miêu tả mờ nhạt: Binh Chức, Năm Thọ, bà Ba…
* Nhịp điệu trần thuật “trầm bổng”
Trong truyện “Chí Phèo”, nhịp độ chủ yếu là sự chậm rãi, thong thả vì tác phẩm được kết cấu theo lối hồi cố (hồi tưởng lại cuộc đời Chí Phèo); nhà văn sử dụng bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật (đoạn miêu tả tâm lí Chí Phèo tỉnh rượu ) nhưng cũng có sự kiện, nhà văn Nam Cao rút gọn lại khiến cho nhịp kể trôi qua rất nhanh ( thời gian Chí Phèo sồng 5 ngày bên Thị Nở)
*Yếu tố kịch tính
Yếu tố kịch tính được tạo nên bởi truyện đã phản ánh mâu thuẫn giai cấp rất căng thẳng đến mức không thể điều hòa được: mâu thuẫn giữa Chí Phèo và Bá Kiến. Cùng với đó là mẫu thuẫn giữa con người và hoàn cảnh sống (Chí Phèo và dư luận, định kiến về Chí Phèo của người dân làng Vũ Đại). Hai mâu thuẫn này khiến Chí Phèo giết Bá Kiến rồi tự sát.
Lđ 3. Đánh giá:
-Ý kiến đúng đắn, khẳng định tính chất đặc trưng của thể loại truyện ngắn, nghệ thuật viết truyện ngắn.
-Bài học với người cầm bút: cần chú trọng lối viết “tảng băng trôi”, hàm ẩn để truyện đảm bảo được tính chất “ngắn”; chú ý những dấu hiệu quan trọng làm nên sức hấp dẫn của truyện là cốt truyện và những chi tiết đặc sắc, đắt giá.
Đề 2.
Bàn về thể loại truyện ngắn, nhà phê bình Hoàng Phong Tuấn viết:
“Truyện ngắn chỉ là một khoảnh khắc, nhưng là cái khoảnh khắc gợi mở đến vô cùng, là một giọt sương phản chiếu cả bầu trời, là giọt nước mắt mang chứa cả cõi lòng con người.” (“Vợ nhặt” – Chất thơ vút lên từ cái đói và cái chết – Tư liệu Ngữ văn 12 – Tr.184 – NXB Giáo dục, 2008)
Anh (chị) hiểu và suy nghĩ như thế nào về quan niệm trên? Hãy làm sáng tỏ qua việc phân tích truyện ngắn “Vợ nhặt” (Kim Lân).
Nghị luận chất thơ trong truyện ngắn “Hai Đứa Trẻ” của nhà văn Thạch Lam
Đề bài:
Chất thơ trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” (Thạch Lam).
Hướng dẫn làm bài
1. Tìm hiểu đề:
Đề bài thuộc kiểu đề tự do – chỉ nêu chủ đề mà không bắt buộc về cách thức, phương pháp triển khai chủ đề đó. Chủ đề được nêu trong đề bài này là chất thơ trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” (Thạch Lam). Về thực chất, có thể hiểu, đề bài yêu cầu phân tích để tìm ra những biểu hiện của chất thơ cũng như vai trò của nó trong việc tạo nên dấu ấn phong cách Thạch Lam và thành công của truyện ngắn “Hai đứa trẻ”. Để thực hiện yêu cầu này của đề bài, học sinh cần nắm vững, hiểu rõ khái niệm “chất thơ”, chất thơ trong truyện ngắn để trên cơ sở đó xác định đúng và phân tích thấu đáo biểu hiện cũng như giá trị của chất thơ trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”.
2. Dàn ý:
a. Mở bài:
– Đọc truyện ngắn Thạch Lam, dễ thấy cốt truyện của ông không có gì đặc biệt, thậm chí đôi khi đơn giản đến như không có. Nhân vật của ông cũng không thuộc vào những lớp người có sức ảnh hưởng lớn trong xã hội. Vậy mà tác phẩm vẫn có được một sức truyền cảm lớn để có thể neo đậu lâu bền trong lòng người đọc, tạo nên một sức cuốn hút nhẹ nhàng mà da diết cho người đọc mỗi lần đọc lại, sống lại cùng với nó. Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sức truyền cảm, sự hấp dẫn, cuốn hút ấy chính là chất thơ lắng đọng lan toả từ những trang văn.
– Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” (“Nắng trong vườn” – 1938) là một truyện ngắn giàu chất thơ.
b. Thân bài:
b.1. Chất thơ và chất thơ trong truyện ngắn:
– “Chất thơ”: Tính chất trữ tình – tính chất được tạo nên từ sự hoà quyện giữa vẻ đẹp của cảm xúc, tâm trạng, tình cảm với vẻ đẹp của cách biểu hiện nó để có thể khơi gợi những rung động thẩm mĩ và tình cảm nhân văn.
– Chất thơ trong truyện ngắn: Được tạo nên khi nhà văn chú ý khai thác và biểu hiện một cách tinh tế cái mạch cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật hoặc của chính mình trước thế giới bằng những chi tiết, hình ảnh đầy gợi cảm và một lối văn trong sáng, truyền cảm, phù hợp với nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm hồn.
– Một truyện ngắn (hoặc tác phẩm văn xuôi) được coi là giàu chất thơ khi mối bận tâm của người viết không đặt vào việc kể lại một biến cố, sự việc, hành động mà là việc làm bật lên một trạng thái của đời sống hoặc của tâm hồn con người.
b.2. Chất thơ trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”:
b.2.1. Vẻ đẹp của cảm xúc, tâm trạng, tình cảm:
– ở nhân vật Liên có vẻ đẹp của một tâm hồn trẻ thơ trong sáng và thuần khiết, tự nhiên như chưa từng chịu một tác động tiêu cực nào của cuộc sống:
+ Những rung động tinh tế trước cuộc sống xung quanh: Chỉ một mùi nồng nồng, âm ẩm bốc lên đã khiến Liên ngỡ đó là mùi riêng của đất quê; không khí vắng lặng đìu hiu của phố huyện đã lay động tâm hồn Liên để cô cảm nhận được cái buồn của buổi chiều quê và khiến đôi mắt cô cũng như ngập đầy bóng tối của buổi chiều quê đó; khi đêm xuống, Liên thích thú ngắm bầu trời đêm với ngàn sao lấp lánh để mơ mộng về con vịt theo sau ông Thần Nông, về dòng sông Ngân Hà trong các câu chuyện cổ; tâm hồn Liên trong sáng và nhạy cảm đến độ có thể bắt nhạy với những dấu hiệu mơ hồ nhất của thế giới quanh mình: những con đom đóm lập loè, những khe sáng, hột sáng lọt qua khe cửa, từng loạt hoa bàng rụng khẽ xuống vai áo…
+ Hoài niệm về quá khứ và mơ mộng với đoàn tàu: Cuộc sống thường nhật với gánh nặng mưu sinh không thể xoá bỏ trong Liên niềm nhớ tiếc quá khứ. Thậm chí, chính cuộc sống tẻ nhạt hàng ngày lại khiến nỗi nhớ ấy thêm da diết, khắc khoải: dù kỉ niệm còn lại không nhiều, nhưng quá khứ luôn trở về trong Liên bằng ánh hồi quang rạng rỡ nhất “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo”. Chính nỗi nhớ quá khứ luôn thường trực đã khiến Liên khi đối diện với hình ảnh thực của chuyến tàu đêm lại đắm mình trong những mơ tưởng xa xôi để “sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết” mà chuyến tàu ấy gợi lên trong tâm hồn cô.
+ Lòng trắc ẩn đối với những cảnh ngộ đáng thương: Bản thân Liên đang sống một cuộc sống nghèo khó, Liên cũng thấm thía sâu sắc cảnh nghèo và buồn mà cô đang phải trải qua song không vì thế mà Liên đóng kín tâm hồn đối với con người và cuộc sống quanh mình. Nhìn những đứa trẻ nghèo đang nhặt nhạnh, tìm kiếm trên bãi chợ, Liên thấy “động lòng thương” tuy chính chị cũng không có gì để cho chúng. Sẵn có một tấm lòng thơm thảo, Liên đã rót đầy hơn vào cút rượu của bà cụ Thi điên dù trong em không phải không có cảm giác sờ sợ rất tự nhiên ở một đứa trẻ khi phải đối diện với một người không hoàn toàn bình thường. Chính những tình cảm ngỡ như rất giản dị ấy lại làm cho người ta cảm động như được “thanh lọc tâm hồn” để trở về với những gì tự nhiên thuần khiết nhất.
– ở cái tôi Thạch Lam ẩn kín sau nhân vật: Dường như, Thạch Lam đã viết truyện ngắn “Hai đứa tre” bằng chính những trải nghiệm tuổi thơ ở phố huyện Cẩm Giàng. Đọc truyện, không thể không nhận thấy cái tình âu yếm mà Thạch Lam dành cho nhân vật. Cái tình âu yếm ấy một mặt xuất phát từ cái nhìn nhân hậu, yêu thương mà người lớn dành cho lứa tuổi này, một mặt là do nhà văn đã hoá thân vào nhân vật, là sự ám ảnh của tuổi thơ gắn liền với phố huyện Cẩm Giàng. Sự cộng hưởng của những cảm xúc này để tạo cho những trang viết Thạch Lam một sự hoà quyện giữa chất thực và chất thơ để tạo thành một sức hút da diết, bền lâu của tác phẩm.
b.2.2. Vẻ đẹp của hình thức nghệ thuật:
– Trong truyện, Thạch Lam đã xây dựng được một thế giới hình ảnh vừa chân thực, sinh động lại vừa vô cùng gợi cảm bởi chính vẻ đẹp của nó.
+ Quan niệm của Thạch Lam: “Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật bình thường”.
+ Không gian được lựa chọn trong tác phẩm: Một phố huyện nghèo nơi tiếp giáp giữa thành thị và thôn quê song dưới ngòi bút Thạch Lam dường như tính chất làng đã nhiều hơn tính chất phố.
+ Trong không gian êm ả, tĩnh lặng của phố huyện, mỗi hình ảnh được ngòi bút Thạch Lam gợi ra đều chan chứa chất thơ: Phương Tây “đỏ rực như lửa cháy”, đám mây “ánh hồng như hòn than sắp tàn”, tiếng trống thu không “vang xa để gọi buổi chiều”, đêm mùa hạ “êm như nhung và thoảng qua gió mát”, vòm trời “hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh”, những con đom đóm “bay là là trên mặt đât hay len vào những cành cây”, bóng bác phở Siêu “mênh mông ngả xuống đất một vùng và kéo dài đến tận hàng rào hai bên ngõ”…Tất thảy đều là những hình ảnh, màu sắc, âm thanh vô cùng quen thuộc, bình dị mà ngỡ như rất mới mẻ, rất gợi cảm trong những câu văn Thạch Lam bởi nó không chỉ hiện diện như một khái niệm mà như một trạng thái của sự sống đang xao động để chuyển dần một cách tinh tế cái xao động ấy vào tâm hồn con người. Dưới ngòi bút Thạch Lam, thậm chí đến cả rác rưởi của một phiên chợ quê cũng gợi nhớ bao điều thân thuộc “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Sức gợi cảm của thứ mùi vị này ở chỗ nó đánh thức cảm xúc, cảm giác ấu thơ của rất nhiều người Việt.
– Truyện có những chi tiết được lựa chọn đích đáng để thể hiện tinh và sâu thế giới của những cảm xúc, cảm giác và tình cảm vừa mơ hồ, vừa da diết trong tâm hồn nhân vật: Liên ngồi lặng lẽ bên mấy quả thuốc sơn đen lúc chiều muộn với đôi mắt ngập đầy dần bóng tối; Liên cùng em nhìn ngắm những vì sao để mà thấy chúng như thuộc về vũ trụ thăm thẳm bao la, đầy bí mật và xa lạ; Liên và An chờ đợi chuyến tàu đêm… Trong số đó, có thể nói, chi tiết đợi tàu của hai đứa trẻ chính là đỉnh điểm của chất thơ trong tâm hồn người. Với hai chị em Liên, đoàn tàu vừa là một thực tế, vừa là một ảo ảnh trong cái nhìn non trẻ và đầy khát khao. Đoàn tàu đi rồi, ánh sáng vụt loé lên cũng đã tắt, hai chị em cũng đã chìm vào giấc ngủ song dư âm của khát vọng thì vẫn còn vang vọng mãi bởi đó là yếu tố cơ bản để “gióng lên cái gì đó còn ở tương lai” (Nguyễn Tuân). ánh sáng của đoàn tàu đã làm cháy lên một thứ ánh sáng khác – ánh sáng của khát vọng da diết trong tâm hồn những đứa trẻ. Trân trọng và nâng niu khi khám phá ra thứ ánh sáng này, tác phẩm của Thạch Lam đã đạt tới một giá trị nhân văn đáng quý.
– Mạch truyện của “Hai đứa trẻ” rất đậm chất trữ tình:
+ Quan niệm của Thạch Lam: “Nhà văn cốt nhất phải đi sâu vào tâm hồn mình, tìm thấy những tính tình và cảm giác thành thực: tức là tìm thấy tâm hồn mọi người qua tâm hồn của chính mình”. Từ đó có thể thấy, cái hiện thực mà nhà văn quan tâm và đặt lên hàng đầu là hiện thực tâm trạng, là những xúc cảm, rung động của tâm hồn con người.
+ Truyện “Hai đứa trẻ” không có cốt truyện, mạch truyện không vận động theo mạch của những tình tiết, sự kiện mà vận động theo mạch cảm xúc, tâm trạng nhân vật. Để làm được điều này, nhà văn đã đặt điểm nhìn trần thuật vào nhân vật Liên – một cô gái chưa hoàn toàn bước ra khỏi thời ấu thơ, một cô gái có tâm hồn thuần khiết và nhạy cảm. Từ điểm nhìn ấy, bức tranh đời sống được tái hiện với sự đan xen, song hành và xâm nhập của cảm giác thực tại và hồi ức quá khứ mà dường như, cái nổi trội lên, chi phối sự vận động của mạch truyện lại là hành trình tìm lại những kí ức quá khứ từ chính cái hình ảnh đang hiện diện trong thực tại – hình ảnh đoàn tàu. Triển khai mạch truyện theo hướng này, ngòi bút Thạch Lam có xu hướng hướng nội, đi vào thế giới bên trong với những cảm xúc, cảm giác nhiều khi rất mong manh, mơ hồ, thoáng qua, những biến thái tinh vi của tâm hồn trước ngoại cảnh: nỗi buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn, những hoài niệm da diết về một Hà Nội trong kí ức tuổi thơ, những cảm giác xa xôi không biết…
– Để thể hiện thành công tất cả những điều trên, Thạch Lam đã sử dụng một bút pháp trữ tình đặc sắc trong lời kể, giọng kể, một bút pháp hoà hợp sự trong sáng, chính xác và dịu dàng, hoà hợp sự kín đáo và giản dị như một lời thủ thỉ vừa phải, êm đềm nhỏ nhẹ nhưng có thể phân biệt được từng âm vị.
+ Thạch Lam ít dùng những chữ to tát, những nhịp điệu gấp gáp vội vàng, lời văn của ông nhuần nhuyễn, tinh tế để phô diễn những trạng thái, những cảm xúc trong tâm hồn. Câu văn của Thạch Lam nhiều thanh bằng gợi một nhịp điệu chậm buồn nhưng có sức lan toả. Chẳng hạn khi miêu tả vẻ trầm buồn nhưng cũng rất đỗi nên thơ của phố huyện, Thạch Lam đã viết: “Chiều, chiều rồi, một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào…” Hay miêu tả cảnh đêm tối sau khi chuyến tàu đi qua: “Đêm tối vẫn bao bọc xung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia đồng ruộng mênh mang và yên lặng”.
+ Thạch Lam đã sáng tạo ra một thứ ngôn ngữ nghệ thuật riêng để biểu đạt cái xao động của sự sống khẽ vang lên trong không gian, thời gian tĩnh mịch để diễn tả cái thanh thoát, dịu hiền của tâm hồn Liên: êm ả, yên lặng, thong thả, gượng nhẹ, nhỏ xíu, yên tĩnh, mơ hồ, miên man, tĩnh mịch … Những từ ngữ này liên kết với nhau như một dải lụa nhẹ bay để tạo một dư âm sâu lắng trong tâm hồn người đọc.
+ Văn phong Thạch Lam rất bình dị: Câu văn ngắn, nhịp văn chậm rãi, thong thả. Dù diễn tả cái náo nức bên trong, cái sôi động của ước mơ, Thạch Lam vẫn rất nhẹ nhàng, vẫn tự nén ngòi bút. Chuyến tàu rực sáng vụt qua, Liên xúc động mạnh khi kỉ niệm xưa dồn dập hiện về “Hà Nội xa xăm, Hà nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo”. Đây là một trong số ít những câu văn kết hợp lối trùng điệp và những thanh trắc tạo điểm nhấn và ngay câu sau Thạch Lam viết ngắn hơn, nhẹ hơn, như ghìm giữ lại niềm xúc động: “Con tàu như đem một chút thế giới khác đi qua”. Thạch Lam thường sử dụng kiểu cú pháp đẳng lập, đều đều, nhịp độ khoan thai điềm tĩnh mà vẫn gây những chấn động nhẹ nhàng, thấm thía chính là ở độ nén của cảm xúc mà nhà văn tạo ra trong những câu văn.
c. Kết luận:
– Truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, từ hình thức nghệ thuật tới nội dung được biểu hiện đều chan chứa chất thơ – cái chất thơ được chưng cất từ đời sống bình dị, thường nhật bằng chính rung động của tâm hồn nhà văn, chất thơ toả ra từ tình yêu cái đẹp, từ cái nhìn tinh tế trước thiên nhiên, đời sống và niềm tin ở thiện căn của con người…
– Với những gì được khai thác và biểu hiện trong tác phẩm, có thể nói, truyện “Hai đứa trẻ” tựa như một bài thơ trữ tình, dù không thật giàu có sâu sắc về ý nghĩa xã hội thì vẫn “đem đến cho người đọc một cái gì nhẹ nhõm, thơm lành và mát dịu” (Nguyễn Tuân). Đó vừa là giá trị riêng của tác phẩm, vừa là cốt cách văn chương của Thạch Lam để tạo ra một sức hấp dẫn bền lâu trong lòng độc giả.
Như vậy, để biết một tác phẩm văn xuôi như truyện ngắn hay một đoạn văn trong một cuốn tiểu thuyết có giàu “chất thơ” hay không cần phải đọc kỹ văn bản đó; chú ý sự liên kết các cấp độ trong văn bản có đưa lại một hiệu ứng thẩm mỹ nào không? Nếu có hiệu ứng như là một khoái cảm thẩm mỹ trong quá trình đọc thì văn bản văn xuôi đó thực sự giàu “chất thơ”.