Docly

Ngôn từ là gì? Đặc trưng và sức mạnh của ngôn ngữ

Ngôn từ được con người sử dụng hàng ngày thông qua cách nói chuyện, cách trao đổi thông tin với nhau. Với một ý nghĩa nào đó nhưng mỗi người sẽ có những cách trình bày, thể hiện khác nhau do đó tác dụng truyền đạt thông tin đến người nhận cũng sẽ khác nhau. Vậy Ngôn từ là gì? Mời bạn cùng tìm hiểu thêm về khái niệm, đặc trưng của ngôn từ tiếng việt và sức mạnh của ngôn từ trong bài viết dưới đây của Trang Tài Liệu.

Ngôn từ là gì?

Ngôn từ là một phương thức biểu đạt suy nghĩ, truyền tải nội dung thông điệp được cá nhân diễn đạt những suy nghĩ, hành động thành lời nói hoặc văn bản.

Trong đời sống hàng ngày, ngôn từ chính là một sợi dây vô hình có tác dụng kết nối con người, gắn kết các mối quan hệ. Những người hoạt ngôn, sử dụng ngôn từ một cách khôn ngoan sẽ tạo ra những bước ngoặt lớn cho cuộc đời.

Ngôn từ được cá nhân dùng thường xuyên và nó chính là phương tiện để giao tiếp của con cá nhân. Giao tiếp chính là nghệ thuật và ngôn từ cũng chính là một nghệ thuật mà chúng ta cần học hỏi.

Đặc trưng của ngôn từ người Việt

Ngôn từ là gì:    

Ngôn từ là phương tiện giao tiếp trọng yếu nhất của con người. Nhiều ngôn từ sử dụng điệu bộ, âm thanh, ký hiệu, hay chữ viết, và cố gắng truyền khái niệm, ý nghĩa, và ý nghĩ, nhưng mà nhiều khi những khía cạnh này nằm sát quá, cho nên khó phân biệt nó. Ngôn ngữ không phải là một bộ “quy tắc và ngữ pháp”. Ngôn từ là công cụ người ta dùng để biểu đạt ý nghĩa và tình cảm của mình đối với người khác, qua đó để người ta hiểu nhau.           

Cùng với sự biến đổi của xã hội, ngôn từ không ngừng biến đổi theo để có thể hoàn thành sứ mệnh của mình. Điều này đặt ra đòi hỏi đối với người nghiên cứu ngôn từ là cần kịp thời nghiên cứu những xu hướng phát triển mới của ngôn từ nhằm phục vụ công tác dự báo, định hướng, chuẩn hóa và giáo dục ngôn từ phù hợp với từng giai đoạn.

Ngôn từ của người Việt:           

Trước hết, đó là sự phong phú trong hệ thống xưng hô tiếng Việt: Trong khi các ngôn ngữ khác chỉ sử dụng các đại từ nhân xưng thì tiếng Việt, ngoài các đại từ nhân xưng, còn sử dụng một số lượng lớn các danh từ chỉ quan hệ họ hàng (anh, chị – em; ông, bà, bác, cô, gì, chú – cháu, con…) và một số danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ (thầy, cô, bác sĩ, ông cai, ông lý, ông huyện,…) để thay thế cho đại từ, chúng trở thành các từ đại từ hóa, những từ đại từ hóa này có xu hướng lấn át các đại từ nhân xưng.           

Trong tiếng Việt có tổng cộng trên 60 từ xưng hô. Hệ thống xưng hô cực kỳ phong phú này thể hiện rất rõ các đặc tính của văn hóa nông nghiệp Việt Nam:

– Có tính chất thân mật hóa cao (đặc tính trọng tình cảm). Với cách xưng hô này, tất cả mọi người trong cộng đồng đều trở thành bà con họ hàng trong một gia đình.

– Có tính chất cụ thể hóa cao (tính linh hoạt). Trong hệ thống từ xưng hô này, không có cái “tôi” chung chung: với mỗi người đối thoại khác nhau, người nói ở vào những cương vị khác nhau, những vai khác nhau. Trong hệ thống từ xưng hô này, cũng không có cái “anh” chung chung, cái “nó” chung chung; quan hệ xưng hô phụ thuộc vào tuổi tác, địa vị xã hội, thời gian, không gian giao tiếp: Cùng là một cặp đối thoại, lúc ở trường học thì người này gọi người kia là thầy, nhưng khi về nhà thì lại gọi là em, vì người thầy kia chính là em trai (hoặc em họ) của người này. Còn nhớ, vào những năm 60, có một vị lãnh đạo từng kêu gọi mọi người dùng các đại từ tôi, nó trong giao tiếp, xưng hô như ở các ngôn ngữ khác cho giản tiện và dân chủ, thế nhưng truyền thống văn hóa vẫn mạnh hơn: không một người Việt Nam nào có thể xưng “tôi” với một người cao tuổi, một người bậc trên; cũng như không một người Việt Nam nào có thể gọi một người cao tuổi, một người bậc trên là “nó”.

 – Có tính xã hội hóa cao (tính cộng đồng). Hai người nói chuyện với nhau đấy, xưng hô với nhau đấy, nhưng thực ra vẫn luôn luôn kéo cả những người thứ ba, thứ tư… vào cuộc. Đó là những lối gọi nhau bằng tên con, tên cháu, tên vợ, tên chồng… Hai vợ chồng gọi nhau là bố nó – mẹ nó, ba nó – má nó, ông nó – bà nó… chẳng là đã lôi cả những người thứ ba là con mình, cháu mình vào cuộc đấy ư? Hai người nói chuyện với nhau đấy nhưng cũng chính là đang thông báo, đang tự giới thiệu cho những người ngoài ­ những người thứ tư ­ biết rằng mình đã có con, có cháu; đã lên bậc cha, bậc mẹ; lên bậc ông, bậc bà…, để những người này nếu muốn nói chuyện với mình thì còn biết đường mà xưng hô!

– Có tính đa nghĩa cao (tính tổng hợp). Cùng là hai người, nhưng cách xưng hô có thể đồng thời tổng hợp được các quan hệ khác nhau: Lối xưng hô ông-con, chú-con, bác-em… vừa thể hiện quan hệ “ông-cháu”, “chú-cháu”, “bác-cháu”, vừa thể hiện quan hệ “cha-con”, “anh-em”; vừa thể hiện được sự cách biệt về tuổi tác (gọi “ông” là cách biệt rất lớn, ngang tuổi ông mình; gọi “bác” là cách biệt nhiều, ngang tuổi anh bố mình; gọi “chú” là cách biệt ít hơn, ngang tuổi em bố mình), sự cách biệt về vai vế (“ông” bằng vai với ông mình, “chú”, “bác” bằng vai với bố mình), vừa thể hiện được sự gần gũi, thân mật như cha con, anh em.

– Có tính tôn ty, nhưng đồng thời lại vẫn rất dân chủ. Tôn ty đây là sự thể hiện đúng quan hệ tuổi tác, thứ bậc trong họ hàng, ngoài xã hội…, và vì thể hiện đúng, cho nên rất dân chủ, công bằng.

 – Thể hiện tâm lý nhường nhịn, trọng sự hòa thuận (hiếu hòa). Người Việt Nam xưng và hô theo nguyên tắc xưng khiêm hô tôn (tự xưng thì khiêm nhường còn gọi đối tượng giao tiếp với mình thì tôn kính). Việc tôn trọng, đề cao nhau dẫn đến tục kiêng tên riêng: tên riêng xưa kia không phải là cái dùng để gọi nhau (trái với chức năng bẩm sinh của nó). Đặt tên con cần nhất là không được trùng với tên của những người bề trên trong họ hàng cũng như xung quanh hàng xóm. Cũng vì kiêng tên riêng mà người Việt Nam trước đây có tục nhập gia vấn húy: vào nhà ai, phải hỏi tên chủ nhà trước để khi nói chuyện nếu có dùng đến từ đó thì phải nói chệch đi (nhưng người phương Tây thì, ngược lại, gặp nhau phải hỏi tên nhau để còn dùng tên ấy mà gọi).

Bên cạnh đó, nghi thức trong các cách nói lịch sự cũng rất phong phú. Do truyền thống tình cảm và linh hoạt nên người Việt Nam không có một từ cảm ơn, xin lỗi chung chung cho mọi trường hợp như phương Tây. Với mỗi trường hợp có thể có một cách cảm ơn, xin lỗi khác nhau: Con xin chú (cảm ơn khi nhận quà), Chị chu đáo quá (cảm ơn khi được quan tâm), Bác bày vẽ quá (cảm ơn khi được tiếp đón), Quý hóa quá (cảm ơn khi khách đến thăm), Anh quá khen (cảm ơn khi được khen), Cậu đã cứu cho tớ một bàn thua trông thấy, Cháu được như hôm nay là nhờ cô đấy (cảm ơn khi được giúp đỡ)…

Ngoài ra, văn hóa nông nghiệp ưa ổn định, sống chú trọng đến không gian, nên người Việt Nam phân biệt kĩ các lời chào theo quan hệ xã hội và theo sắc thái tình cảm. Trong khi đó văn hóa phương Tây ưa hoạt động lại phân biệt kĩ các lời chào theo thời gian như chào gặp mặt, chào chia tay, chào buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, buổi tối…

Đặc trưng của ngôn từ người Việt:

 +) Thứ nhất, ngôn từ Việt Nam có tính biểu trưng cao. Tính biểu trưng thể hiện ở xu hướng khái quát hóa, ước lệ hóa, công thức hóa với những cấu trúc cân đối, hài hòa. Xu hướng ước lệ bộc lộ ở chỗ tiếng Việt thích những cách diễn đạt bằng các con số biểu trưng. Lối tư duy tổng hợp mọi yếu tố, lối sống ổn định có quan hệ tốt với hết thảy mọi người dẫn đến xu hướng trọng sự cân đối hài hòa trong ngôn từ – một biểu hiện khác của tính biểu trưng. Tính cân xứng là một đặc tính rất điển hình của tiếng Việt.

 Lối tư duy tổng hợp mọi yếu tố; lối sống ưa ổn định và có quan hệ tốt với hết thảy mọi người dẫn đến xu hướng trọng sự cân đối hài hòa trong ngôn từ – một biểu hiện khác chỉ tính biểu trưng. Tính cân xứng là một đặc tính rất điển hình của riêng Việt.

  Truyền thống văn chương Việt Nam thiên về thơ ca: Người Việt Nam hầu như ai cũng biết làm thơ; lịch sử mấy nghìn năm của Việt Nam chủ yếu là lịch sử của thơ ca – một thứ thơ có cấu trúc chặt chẽ (lục bát; song thất lục hát) và có vần điều nghiêm ngặt thể hiện sự cân đối; hài hòa. Văn chương phương Tây thì; ngược lại; có khuynh hướng thiên về văn xuôi. Thống kê trên 2 tập Từ điển văn học cho thấy trong 198 mục từ tác phẩm văn học phương Tây (châu Âu + Nga) thì có 43 thơ và 155 văn xuôi, tức là vãn xuôi chiếm 78,3%; còn trong 95 mục từ tác phẩm văn học Việt Nam (không kể các truyện cổ tích được kể riêng như Trầu Cau; Thành Gióng…) thì có 69 thơ và 26 văn xuôi, tức là thơ chiếm 72,6% (trong 26 mục văn xuôi này có rất nhiều tác phẩm hịch, chèo, tuồng… mang đậm chất thơ). Ở Việt Nam, văn xuôi truyền thống cũng là văn xuôi thơ, thế mạnh đó còn do tiếng Việt là một ngôn ngữ giàu thanh điệu, tự thân thanh điệu đã tạo nên tính nhạc cho lời văn rồi. Từ những bài văn xuôi viết theo lối biền ngẫu như Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn; hoặc những lời văn Nôm bình dân… khắp nơi đều gặp một lối cấu trúc cân đối, nhịp nhàng, chặt chẽ và có tiết tấu, vần điệu.

 +) Thứ hai, ngôn từ Việt Nam rất giàu chất biểu cảm – sản phẩm tất yếu của một nền văn hóa trọng tình.

 Về mặt từ ngữ, chất biểu cảm này thể hiện ở chỗ các từ, bên cạnh yếu tố gốc mang sắc thái nghĩa trung hòa, thường có rất nhiều biến thể với những sắc thái nghĩa biểu cảm: Bên cạnh màu xanh trung tính, có đủ thứ xanh rì, xanh rờn, xanh rợn, xanh ngắt, xanh um, xanh lè… Bên cạnh màu đỏ trung tính có đỏ rực, đỏ au, đỏ lòm, đỏ loét, đỏ hoe… Các từ láy mang sắc thái biểu cảm mạnh cũng rất phổ biến lòng tiếng Việt (ở các ngôn ngữ khác, kể cả tiếng Hán, đều hầu như không có): không phải ngẫu nhiên mà trong thơ ca của ta có thể gặp rất nhiều từ láy. Ở trên vừa nói Tiếng Việt thiên về thơ, mà thơ là mang đậm chất tình cảm rồi, cho nên từ láy với bản chất biểu cảm rất phù hợp với nó.

 Về ngữ pháp, tiếng Việt dùng nhiều hư từ biểu cảm: à, ư, nhỉ, nhé, chăng, chớ, hả, hở, phỏng, sao, chứ… Cấu trúc “iếc hóa” có nghĩa đánh giá (sánh siếc, bàn biếc…) cũng góp phần làm tăng cường hệ thống phương tiện biểu cảm cho tiếng Việt. Khuynh hướng biểu cảm còn thể hiện ở chỗ trong lịch sử văn chương truyền thống, không có những tác phẩm anh hùng ca đề cao chiến tranh; có nói đến chiến tranh chăng thì cũng chỉ là nói đến nỗi buồn của nó (Ví dụ như bài thơ Chinh phụ ngâm).

+) Thứ ba, ngôn từ Việt Nam còn có tính động và linh hoạt.Tính động, linh hoạt này trước hết bộc lộ ở hệ thống ngữ pháp. Trong khi ngữ pháp biến hình của các ngôn ngữ châu Âu là một thứ pháp chặt chẽ tới mức máy móc thì ngữ pháp tiếng Việt tổ chức chủ yếu theo lối dùng các từ hư để biểu hiện các ý nghĩa và quan hệ ngữ pháp, khiến cho người sử dụng được quyền linh hoạt tối đa. Ngữ pháp của các ngôn ngữ phương Tây là ngữ pháp hình thức, còn ngữ pháp Việt Nam là ngữ pháp ngữ nghĩa. Nói bằng một ngôn ngữ châu Âu, ta bắt buộc phải chia động từ theo các thể, các ngôi…; phải đặt danh từ vào các giống, các số, các cách…; phải đặt tính từ vào những hình thái phù hợp với danh từ…; Chính vì linh hoạt như vậy mà tiếng Việt có khả năng diễn đạt khái quát rất cao.

Ý nghĩa của việc sử dụng ngôn từ

Ngôn từ là gì? Ngôn từ chính là phương pháp để cá nhân kết nối với nhau, thông qua ngôn từ mà trẻ nhỏ hay người lớn sẽ hiểu được những thông điệp mà bạn muốn truyền đạt.

–  Ngôn từ có sức mạnh kết nối cá nhân với nhau hoặc theo chiều hướng thân thiện hoặc sẽ theo chiều hướng xấu đi.

– Sức mạnh của ngôn từ thật to lớn, nó khiến cho cho một cuộc chiến tranh nổ ra, tuy nhiên cũng nhiều khả năng làm cho một cuộc chiến tranh giới hạn lại.

– Chỉ với việc bắt đầu bằng những câu nói, lời chào hỏi sẽ giúp bạn mở ra những mối quan hệ tốt đẹp. Thông qua cách nói, sử dụng từ ngữ, văn phong diễn đạt một ý kiến nào đó của bạn, người ta đã có thể hình dung ít nhiều về trí lực, tính cách, về lối nghĩ và lối sống của bạn.

– Vấn đề sử dụng ngôn từ thông qua lời ăn tiếng nói hay diễn đạt bằng văn bản được gắn chặt với đời sống hàng ngày, thúc đẩy quá trình hoàn thiện nhân cách của mỗi người.

– Năng lực ngôn từ của mỗi cá nhân khác nhau. Thực tế có những người “khéo ăn, khéo nói” hoặc cũng có những người gặp trở ngại khi biểu đạt lời nói. Do đó để thể hiện bản thân, bạn phải không ngừng trau dồi và tập luyện.

– Ngôn từ là biểu đạt, là cốt lõi thể hiện giá trị con người, đồng thời cũng là phương tiện để con người nhìn nhận và thay đổi bản thân, từ đó khẳng định mình với thế giới. 

– Sức mạnh của ngôn từ không chỉ giúp bạn phần nào nhận ra được thiếu sót về kỹ năng mềm của bản thân, mà còn giúp bạn chiêm nghiệm được những bài học quý giá, đôi khi nó gần ngay bên cạnh nhưng mình không nhận ra. Đó chính là biết cách nhìn nhận bản thân, làm chủ chính mình và có sự liên kết với thế giới bên ngoài.

– Hiểu được sức mạnh của ngôn từ và giá trị của nó, bạn hãy tìm cách trau dồi, nâng cao kỹ năng của mình. Biết cách sử dụng ngôn từ đúng lúc, đúng thời điểm cộng thêm sự khéo léo sẽ giúp bạn thay đổi cuộc sống của chính mình.

Ngôn từ có sức mạnh kỳ diệu tới mức nào?

Ngôn từ là một công cụ mạnh mẽ và có sức mạnh kỳ diệu để tác động đến tư tưởng, cảm xúc và hành vi của con người. Từ ngữ không chỉ đơn thuần là một công cụ để giao tiếp mà còn có thể thúc đẩy tinh thần, khơi gợi cảm hứng, tạo động lực và thậm chí là thay đổi thế giới xung quanh chúng ta. Nó đã được chứng minh trong suốt chiều dài lịch sử.

Trong lịch sử

Sức mạnh của từ ngữ đã được chứng minh qua hàng thế kỷ của văn học, nghệ thuật và văn hoá. Những câu chuyện, bài diễn thuyết, bài viết và thơ ca đã truyền tải những thông điệp quan trọng về tình yêu, sự cộng đồng, tôn giáo, chính trị và nhân đạo. Những tác phẩm này đã thay đổi nhận thức và hành vi của con người, tạo ra sự thay đổi tích cực trong xã hội.

Sức mạnh ngôn từ trong lịch sử

Từ xa xưa, đã có những câu nói như: “Chim khôn hót tự do, người khôn ngoan nói nhẹ nhàng và dễ dàng” hay “Lời nói không tốn tiền mua, hãy chọn từ ngữ làm hài lòng nhau”. Sức mạnh của lời nói tương đương với một đội quân trong chiến tranh. Nó có nghĩa là đàm phán, thuyết phục và kêu gọi sự đồng thuận. Tiêu biểu như tác phẩm “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi, các bản tuyên ngôn, tư liệu lịch sử. Từ ngữ cũng gợi lên ý chí, quyết tâm của cả dân tộc như tác phẩm “Người lính tổng hợp” của Trần Hưng Đạo.

Trong việc sáng tạo khoa học, công nghệ

Từ ngữ cũng có thể được sử dụng để truyền tải thông tin về khoa học, kỹ thuật và công nghệ, giúp con người hiểu rõ hơn về thế giới xung quanh và tạo ra những sáng kiến mới. Từ đơn giản như “điện thoại” đã thay đổi cách chúng ta giao tiếp và liên lạc với nhau, còn những khái niệm phức tạp như “thay đổi khí hậu” đã giúp chúng ta nhận thức rõ hơn về tác động của con người đến môi trường và đưa ra các giải pháp phù hợp.

Giúp kết nối mọi người và vạn vật

Ngôn từ là công cụ giao tiếp chính của con người và nó có thể kết nối mọi người với nhau thông qua nhiều cách khác nhau.Trong giao tiếp cá nhân, từ ngữ giúp chúng ta diễn đạt suy nghĩ, cảm xúc và ý định của mình đến với người khác. Nó cho phép chúng ta chia sẻ kinh nghiệm, kiến thức và thông tin và đồng thời tạo ra sự hiểu biết, sự đồng cảm và tình bạn trong quan hệ giữa con người.

Ngoài ra, ngôn từ còn có vai trò quan trọng trong giao tiếp đại chúng, giúp kết nối với đại đa số người dân và truyền tải thông điệp quan trọng đến đông đảo người dùng. Các hình thức giao tiếp đại chúng như báo chí, truyền hình, đài phát thanh và mạng xã hội đều sử dụng từ ngữ như một công cụ quan trọng để tạo ra tác động và ảnh hưởng đến ý kiến ​​công chúng.

Hơn nữa, ngôn từ còn kết nối các quốc gia, văn hóa và ngôn ngữ với nhau. Ngôn từ có thể được dịch và dùng để truyền tải thông điệp và giao tiếp với những người ở các quốc gia và vùng đất khác nhau, tạo ra sự đa dạng văn hóa và mở rộng quan điểm của con người.

Cuối cùng, ngôn từ có thể kết nối con người với tự nhiên và văn hóa. Nó cho phép chúng ta mô tả và miêu tả những trải nghiệm, cảm xúc và tình huống của mình. Từ đó tạo ra những tác phẩm nghệ thuật, văn học và nhạc phẩm để gửi gắm thông điệp đến mọi người.

Tăng giá trị bản thân

Ngôn từ là công cụ chính để con người thể hiện giá trị bản thân, thông qua cách diễn đạt, tư duy và lối sống của mình. Trong giao tiếp cá nhân, cách diễn đạt, ngôn từ sử dụng và ngữ điệu của chúng ta có thể phản ánh tính cách, giá trị và phẩm chất của một người. Chẳng hạn, một người có cách nói chuyện lịch sự, văn minh và sử dụng từ ngữ chính xác sẽ được đánh giá cao hơn về mặt trí tuệ và giáo dục.

Ngoài ra, cách viết và thể hiện ngôn từ của một người trong các tài liệu, bài viết, email hay bài phát biểu cũng cho thấy đẳng cấp và năng lực của họ. Một người có khả năng viết lách tốt, biết sử dụng từ ngữ phù hợp và thuyết phục sẽ được đánh giá cao hơn trong môi trường làm việc hay xã hội.

Cuối cùng, giá trị bản thân cũng được thể hiện qua lối sống và tư duy của một người, và cách họ thể hiện nó thông qua ngôn từ. Chẳng hạn, một người sống đạo đức, tôn trọng đồng nghiệp và có ý thức về bảo vệ môi trường sẽ thể hiện những giá trị đó thông qua cách nói chuyện và viết lách của mình.

Ngôn từ có vai trò quan trọng trong việc thể hiện giá trị bản thân của một người. Cách sử dụng ngôn từ có thể phản ánh tính cách, phẩm chất, năng lực và đẳng cấp của một người.

Vì vậy, sức mạnh của từ ngữ là rất to lớn và có thể tác động đến những khía cạnh khác nhau của cuộc sống con người, từ trí óc đến xã hội, kinh tế và môi trường.

Cần làm gì để việc sử dụng ngôn ngữ giao tiếp hiệu quả hơn?

Ngôn từ là gì? Tiếng nói là phương pháp chúng ta nói chuyện hàng ngày với nhau, tuy nhiên không phải ai cũng biết phương pháp dùng tiếng nói như một “vũ khí” tốt. Để cho cuộc giao tiếp của bạn hiệu quả hơn thì hãy học theo những phương pháp dưới đây:

– Biết lắng nghe

+ Đây chính là yếu tố trọng yếu hàng đầu của cuộc nói chuyện. Một nguyên tắc cấm kị mà bạn không nên phạm phải chính là “người nói phải có người nghe” do đó đừng vi phạm nguyên tắc tối thiểu này nhé.

+ Tập trung lắng nghe chính là phương pháp bạn tôn trọng và hiểu rõ những thông tin mà cá nhân đối diện muốn chia sẻ. Qua sự lắng nghe bạn sẽ rút ra được những thứ dùng quý giá cho bản thân cũng như việc bạn học hỏi được phương pháp dùng từ của cá nhân đối diện để bổ sung vào vốn từ của mình.

– Luyện tập kỹ năng giao tiếp từ những người khác

+ Khi bạn thường xuyên giao tiếp với những người khác sẽ nhận được vốn kiến thức và phương pháp nói chuyện của họ, như vậy vốn từ của bạn sẽ tăng lên nhiều lần.

+ Bạn là một cá nhân ngại giao tiếp, ngại tiếp xúc với cá nhân lạ thì đây chính là phương pháp bạn cải thiện phần còn kém đó của mình.

– Đọc sách báo để rèn luyện kỹ năng giao tiếp

+ Hãy dành một chút thời gian của mình cho việc đọc sách báo hàng ngày việc này không chỉ sẽ khiến cho cho vốn kiến thức của bạn tăng lên mà còn nhiều khả năng học được phương pháp diễn đạt của cá nhân khác.

+ Không những thường xuyên đọc sách báo mà bạn cũng nên bổ sung kiến thức chuyên ngành cho bản thân. Không phải lúc nào nói chuyện với đồng nghiệp cũng là những câu chuyện ngoài luồng, mà nó cũng liên quan đến công việc.