Docly

Soạn bài Trao duyên ngắn gọn và đủ ý nhất

“Trao duyên” là một thể loại văn học truyền thống của người Việt Nam, được coi là một trong những hình thức văn học tinh tế và đậm chất văn hoá dân tộc. Để có thể soạn bài trao duyên một cách hiệu quả và đầy đủ ý nghĩa, người viết cần phải hiểu rõ về đặc điểm, cấu trúc và ý nghĩa của thể loại văn học này.

Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về cách soạn bài trao duyên một cách đầy đủ và chính xác. Bài viết sẽ bao gồm các phần nội dung như đặc điểm của thể loại văn học trao duyên, cấu trúc của bài trao duyên và các bước để soạn bài trao duyên một cách hiệu quả. Bằng cách tìm hiểu sâu hơn về thể loại văn học trao duyên, hy vọng rằng các bạn sẽ có thêm kinh nghiệm và kiến thức để viết được những bài trao duyên đẹp và ý nghĩa.

Soạn bài Trao duyên ngắn gọn

Câu 1 (trang 106 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2)

Ý nghĩa của việc Kiều nhắc lại các kỉ niệm tình yêu :

   – Kiều sống trong kí ức đẹp, càng xót xa, đau đớn phải mang những kỉ vật chia sẻ.

   – Kiều nói với Vân mà như nói với chính mình. Nhắc lại kỉ niệm tình yêu cho thấy sức sống mãnh liệt của tình yêu, Kiều trao cho Vân kỷ vật nhưng không thể trao kỷ niệm tình yêu.

Câu 2 (trang 106 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2)

   – Những từ ngữ xuất hiện dày đặc cho thấy Kiều đã nghĩ đến cái chết : thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối…; người mệnh bạc ; Mất người ; Thấy hiu hiu gió thì hay chị về ; hồn ; Dạ đài cách mặt khuất lời ; người thác oan.

   -> Ý nghĩa :

       Không còn tình yêu, Kiều cảm thấy trống trải và vô nghĩa, chỉ nhìn thấy cái chết.

       Tư tưởng về cái chết của Nguyễn Du : ảnh hưởng thuyết luân hồi của đạo Phật.

       Sự băn khoăn, day dứt của Nguyễn Du trước nỗi đau của con người, thương thân xót phận cho người con gái tha thiết yêu thương mà số kiếp nghiệt ngã.

Câu 3 (trang 106 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2)

Kiều đối thoại với Vân, với chính mình và với Kim Trọng.

   – Với Vân : Kiều biết ơn chân thành, yên tâm, thanh thản vì mâu thuẫn được giải quyết tạm thời.

   – Với chính mình : tâm trạng giằng xé đầy mâu thuẫn, đau đớn tột cùng.

   – Với Kim Trọng : Khát vọng tình yêu mãnh liệt với hiện thực phũ phàng, Kiều ngất đi trong hình bóng Kim Trọng Ôi Kim Lang…, Kiều tự trách than và đau đớn.

Câu 4 (trang 106 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2)

   – Mối quan hệ tình cảm – lí trí, nhân cách – thân phận : tình yêu – chữ hiếu.

   – Lí trí bảo nàng trao duyên cho Vân, hy sinh cứu cha mẹ. Nhưng con tim hướng về tình yêu lại khiến nàng thổn thức, đau đớn. Đó cũng là mâu thuẫn giữa các phạm trù đạo đức phong kiến với tâm hồn con người, cũng là sự đau khổ khi nhân cách đa tình, đa cảm song hành cùng thân phận người làm con.

Soạn bài trao duyên nâng cao

Câu 1 (trang 106 SGK Ngữ Văn 10 tập 2)

Khi trao duyên, Thúy Kiều trao lại cả kỉ vật cho Thúy Vân:

Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ, vật này của chung”

+ Bức tờ mây → Tờ giấy có trang trí hình mây, ghi lời thề chung thủy của Kim- Kiều.

+ Chiếc vành còn gọi là xuyến bằng vàng đồ trang sức của phụ nữ, Kim Trọng đã trao cho Thúy Kiều để làm tin. Đó là những kỉ vật mà Kiều nâng niu trân trọng.

Một tiếng “giữ” không có nghĩa là “trao” hẳn mà chỉ để cho em giữ. Nhưng tiếng “chung” mới thật xa xót. Bởi đáng lẽ kỉ vật này là của riêng nàng mới đúng giờ đã biến thành của chung. Không đành được, Kiều phải trao lại cho em. Thế mới biết Kim- Kiều nồng nàn sâu sắc đến mức độ nào. Nồng nàn, sâu sắc đó nhưng Kiều vẫn quyết định trao duyên cho em chứng tỏ Kiều đã đặt hạnh phúc của người yêu, đặt chữ hiếu lên trên hết.

Thúy Kiều nhớ lại những kỉ niệm với Kim Trọng:

“Mất người còn chút của tin,

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.

Mai sau dù có bao giờ,

Đốt lò hương ấy so tơ phím này”

Kiều nhớ đến đêm thề nguyền khi nàng sang nhà Kim Trọng, chàng Kim đã thêm hương vào lò hương, sau khi thề nguyền, nàng đã đánh đàn cho chàng nghe -> Kỉ niệm đẹp đẽ của tình yêu luôn có sức sống mãnh liệt. Tình yêu mà Kiều dành cho Kim Trọng thật sâu sắc và mạnh mẽ. Càng mạnh mẽ sâu sắc bao nhiêu ta càng cảm thấy sự tiếc nuối xót xa bấy nhiêu. Đó là sự lưu luyến những kỉ vật, với tình yêu của mình, nàng coi hạnh phúc của mình đã chấm dứt, nàng đau đớn vì tình yêu tan vỡ, vì buộc phải phụ tình Kim Trọng.

Câu 2 (trang 106 SGK Ngữ Văn 10 tập 2)

Với quyết định bán mình cứu cha và em, Kiều coi như mình đã chết. Đó là cái chết của tâm hồn. Vì nàng ý thức hạnh phúc của mình là hết rồi, đã chấm dứt. Từ đây ngôn ngữ trong lời thoại của Kiều gợi ra cuộc sống ở cõi âm, đầy ma mị:

“Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió là hay chị về

Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai

Dạ đài cách mặt khuất lời

Rưới xin giọt nước cho người thác oan”

Nhắc đến cái chết: cách mặt khuất lời, dạ đài, người thác oan, hồn, nát thân bồ liễu, hiu hiu gió là hay chị về… -> Nàng đã ý thức được thân phận của mình. Lời của Kiều là lời của một oan hồn. Tâm trạng của nàng đau đớn đến tột cùng. Nàng đã tự khóc cho mình. Đó là tiếng khóc cho thân phận, xót thương cho chính mình, yêu tha thiết nhưng phải chia lìa tình yêu.

⇒ Tình yêu sâu sắc thuỷ chung của Kiều dành cho Kim Trọng, cùng nỗi đau đớn khi phải chia lìa hạnh phúc.

Câu 3 (trang 106 SGK Ngữ Văn 10 tập 2)

Xuyên suốt đoạn trích chính là tâm tư nguyện vọng của Thúy Kiều, được bộc lộ qua cuộc đối thoại trực tiếp với Thúy Vân và đối thoại gián tiếp với Kim Trọng.

– Cuộc đối thoại giữa Thúy Kiều và Thúy Vân xoanh quanh vấn đề trao duyên: Trong chuyện tình cảm, việc đem tình yêu của mình trao gửi cho người khác là một chuyện cực kì bất đắc dĩ, không ai muốn điều đó xảy ra. Nhưng trường hợp của Kiều không thể đành được, buộc nàng phải làm như thế. Hơn nữa, nên duyên vợ chồng hay không cũng là chuyện hệ trọng của cả một đời người, không yêu sao lại có thể lấy làm chồng được. Trong hoàn cảnh của Kiều lúc này, việc trao duyên là chuyện tế nhị và khó nói. Chính vì thế ngay từ lời mở đầu Kiều đã lựa chọn lời lẽ thích hợp nhất để Thúy Vân chấp nhận lời thỉnh cầu của mình:

 “Cậy em, em có chịu lời”

“ Cậy” chứ không phải nhờ. “Cậy là thể hiện niềm tin. Chỉ có em mới là người chị tin cậy nhất. Vì thế “cậy” mang sắc thái khẩn cầu, có sức thuyết phục hơn. “Chịu lời” là chấp nhận, đồng ý. Ở đây, Kiều không dùng từ “nhận lời” bởi Kiều biết Thúy Vân lúc này không yêu Kim Trọng. Nên những gì Kiều sắp nói ra sẽ phần nào gây khó xử cho Thúy Vân. Dùng từ “chịu lời” để thuyết phục người mình tin buộc phải nghe theo không thể chối từ. Trong lúc bối rối và đau khổ nhất. Kiều vẫn lựa những lời lẽ để thuyết phục em ruột của mình. Bởi Kiểu biết việc mình sắp nói ra vô cùng hệ trọng với cuộc đời Thúy Vân.

“Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”.

 “Lạy em” là lạy đức hi sinh cao cả của Thúy Vân, điều này không trái với đạo lí bởi giờ đây Thúy Vân phải chấp nhận lấy người mình không yêu, cụ thể “lấy người yêu chị làm chồng”.

⇒ Dù trong hoàn cảnh trớ trêu, cõi lòng tan nát, nhưng Thúy Kiều vẫn bộc lộ sự đoan trang, tế nhị và khéo léo. 

Nàng có nói về mối tình của mình, hoàn cảnh của mình:

Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề

Sự đâu sóng gió bất kì

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

Do gia đình xảy ra biến cố nên buộc nàng phải lựa chọn. Một bên là tình cảm sâu đậm, một bên là chữ hiếu gánh nặng trên vai. Và lẽ dĩ nhiên, giữa bên tình và bên hiếu, Kiều buộc phải đặt chữ hiếu lên hàng đầu. Nàng đau đớn khi hi sinh tình yêu của mình, vì thế nên mong rằng Thúy Vân hãy hiểu và thương lấy nàng. Đến đây Kiều có thể nói được những điều muốn nói:

Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non”

Sau khi để Thúy Vân thấy được sự hi sinh của mình, Thúy Kiều tiếp tục gợi tình cảm yêu thương ruột thịt giữa hai chị em để mong Vân xót thương, giúp đỡ =>Lời trao duyên tha thiết, ân tình, éo le mà  trân trọng.   

Điều muốn trao gửi, Kiều đã nói được rồi. Sau phút ấy tâm trạng của Kiều ra sao, ta đọc- hiểu tiếp.

– Cuộc đối thoại gián tiếp với Kim Trọng:

Sau khi bộc bạch, gửi gắm nỗi lòng, Kiều trao kỉ vật cho Thúy Vân và hồi tưởng lại kỉ niệm đẹp của tình yêu. Nàng như quên hẳn người ngồi trước mặt mình là Thúy Vân, Kiều như đang tâm sự, đối thoại với chàng Kim:

Bây giờ trâm gãy bình tan

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân

Trăm nghìn gửi lạy tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi

Phận sao phận bạc như vôi

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng

Ô! Kim Lang! Hỡi Kim Lang

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

⇒ Chất chứa yêu thương qua các từ ngữ : ” tình quân. ôi kim lang! hỡi kim lang! , thiếp, chàng”. Dùng những hình ảnh ước lệ: ” phận bạc như vôi, hoa trôi lỡ làng” => sự bẽ bàng, tủi hổ. Lời thơ như tiếng khóc ai oán. Khóc cho tình yêu không thành, khóc cho thân phận bạc bẽo, khóc cho cõi lòng nát tan. Khóc cho nỗi đau đớn tột cùng, nàng tự cho mình là người phụ bạc người mình yêu.

⇒ Tình yêu son sắc của Kiều dành cho Kim Trọng, bộc lộ niềm xót xa, đau đớn, nghẹn ngào. Khẳng định nhân phẩm cao đẹp của Kiều.

Câu 4 (trang 106 SGK Ngữ Văn 10 tập 2)

Do hoàn cảnh xô đẩy đã đưa Kiều đứng trước hai sự lựa chọn: bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn. Tâm trạng Kiều rối bời và đầy mâu thuẫn: Lí trí mách bảo nàng phải chọn bên hiếu, bán thân lấy tiền cứu lấy cha và em. Nhưng tình cảm thì thì bị giằng xé bởi tình yêu sâu sắc với Kim Trọng. Đó là mâu thuẫn giữa hoàn cảnh bắt buộc và nội tâm của Kiều. Song nàng đã vượt qua mâu thuẫn ấy để nhận nỗi đau về mình. Điều đó khẳng định mối quan hệ giữa tình cảm và lí trí, nhân cách đa tình và thân phận làm con của Kiều,  khẳng định nhân cách cao đẹp của nàng.

Đôi nét về tác giả tác phẩm

Nội dung tác phẩm Trao duyên (trích Truyện Kiều)

…Cậy em, em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.

Kể từ khi gặp chàng Kim,

Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.

Sự đâu sóng gió bất kì,

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.

Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

Chiếc vành với bức tờ mây,

Duyên này thì giữ vật này của chung.

Dù em nên vợ nên chồng,

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.

Mất người còn chút của tin,

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.

Mai sau dù có bao giờ,

Đốt lò hương ấy so tơ phím này.

Trông ra ngọn cỏ lá cây,

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.

Dạ đài cách mặt khuất lời,

Rưới xin giọt nước cho người thác oan.

Bây giờ trâm gãy gương tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

Trăm nghìn gửi lạy tình quân,

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!

Phận sao phận bạc như vôi!

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!

Tìm hiểu tác phẩm Trao duyên (trích Truyện Kiều)

Tác giả

– Nguyễn Du: Nguyễn Du (1765 – 1820), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên ông là một nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam

*Cuộc đời:

– Ông xuất thân trong một gia đình có hai truyền thống lớn đó là truyền thống làm quan và truyền thống văn học. Cha là nguyễn Nghiễm học rộng tài cao làm quan đến chức tể tướng, mẹ là con quan lớn. Anh trai cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản cũng ra làm quan g đây chính là điều kiện tiền đề để Nguyễn Du phát triển tài năng văn học của mình.

– Mười năm lang bạt đất Bắc, Nguyễn Du được nếm trải cuộc sống khó khăn, đói khổ và chứng kiến số phận đau đớn của nhân dân g Trải nghiệm cuộc sống phong trần, vốn sông của ông phong phú, suy ngẫm về xã hội, thân phận con người.

– Được cử đi sứ Trung Quốc 2 lần, lần một năm 1813, được tiếp xúc với nền văn hóa Hán mà ông quen thuộc từ nhỏ, chuyến đi để lại dấu ấn sâu đậm trong thơ văn của ông; lần hai năm 1820, chưa kịp đi thì ông bệnh và mất.

*Sự nghiệp văn học:

– Sáng tác chữ Hán: 3 tập thơ với 249 bài là Thanh Hiên thi tập (78 bài), Nam Trung tạp ngâm (40 bài) và Bắc hành tạp lục (131 bài)

– Sáng tác chữ Nôm: Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều) và Văn chiêu hồn.

– Đặc điểm sáng tác: các tác phẩm đều thể hiện tư tưởng, tình cảm, nhân cách của tác giả.

+ Thể hiện tư tưởng nhân đạo: đề cao giá trị nhân văn con người. Các tác phẩm đó đều thể hiện sự cảm thông sấu sắc của Nguyễn Du đối với cuộc sống của con người, nhất là những người nhỏ bé, bất hạnh, … đó là kết quả của quá trình quan sát, suy ngẫm về cuộc đời, về con người của tác giả.

+ Lên án, tố cáo những thế lực đen tối chà đạp con người.

Tác phẩm

a. Vị trí đoạn trích: Từ câu 723 đến câu 756 trong Truyện Kiều, là lời của Thúy Kiều nói với Thúy Vân.

b. Thể loại: Truyện thơ Nôm.

c. Thể thơ: Lục bát.

d. Phương thức biểu đạt: Tự sự, miêu tả.

e. Ý nghĩa nhan đề: Nhan đề đoạn trích do người biên soạn SGK là Trao duyên nhưng trớ trêu thay đây không phải là cảnh trao duyên thơ mộng của những đôi nam nữ mà ta thường gặp trong ca dao xưa. Có đọc mới hiểu được, Trao duyên, ở đây là gửi duyên, gửi tình của mình cho người khác, nhờ người khác chắp nối mối tình dang dở của mình. Thúy Kiều trước phút dấn thân vào quãng đời lưu lạc, bán mình cứu cha, nghĩ mình không giữ trọn lời đính ước với người yêu, đã nhờ cậy em là Thúy Vân thay mình gắn bó với chàng Kim. Đoạn thơ không chỉ có chuyện trao duyên mà còn chất chứa bao tâm tư trĩu nặng của Thúy Kiều.

f. Bố cục: 3 phần

– Phần 1 (12 câu đầu): Kiều thuyết phục và trao duyên cho Thúy Vân.

– Phần 2 (14 câu tiếp): Kiều trao kỉ vật và dặn dò.

– Phần 3 (còn lại): Kiều đau đớn và độc thoại nội tâm.

g. Giá trị nội dung: Đoạn trích thể hiện bi kịch trong tình yêu của Thúy Kiều qua đó thể hiện tiếng kêu đau đớn của tác giả về số phận con người trong xã hội phong kiến.

h. Giá trị nghệ thuật: Bằng hình thức độc thoại và kết hợp sử dụng giữa ngôn ngữ trang trọng với lối nói dân giản dị, tác giả đã thể hiện đặc sắc diễn biến tâm trạng phức tạp và bế tắc của Thúy Kiều trong đêm trao duyên.

Sơ đồ tư duy Trao duyên (trích Truyện Kiều)

Sơ đồ tư duy Trao duyên (trích Truyện Kiều)

Như vậy, qua bài viết này, chúng ta đã cùng nhau tìm hiểu về cách soạn bài trao duyên một cách đầy đủ và chính xác. Để có thể viết được một bài trao duyên đẹp và ý nghĩa, không chỉ cần có kỹ năng viết văn tốt mà còn cần hiểu rõ về đặc điểm, cấu trúc và ý nghĩa của thể loại văn học này.

Bài trao duyên là một hình thức văn học truyền thống của người Việt Nam, mang đậm tinh thần văn hoá dân tộc và được đánh giá cao về mặt nghệ thuật. Tuy nhiên, để có thể soạn bài trao duyên một cách hiệu quả, người viết cần phải có sự tập trung, tình cảm và khả năng thể hiện tinh tế trong từng câu văn. Đồng thời, cũng cần phải nắm rõ cấu trúc và quy trình soạn bài trao duyên để đảm bảo tính chính xác và sâu sắc của bài viết.

Hi vọng rằng với những kiến thức học tập và kinh nghiệm Trang Tài Liệu đã chia sẻ trong bài viết, các bạn sẽ tự tin hơn trong việc soạn bài trao duyên và sẽ có thể tạo ra những tác phẩm văn học đẹp, ý nghĩa và sâu sắc hơn nữa.