Giá trị thặng dư là gì, Cách tính giá trị thặng dư trong kinh tế
Giá trị thặng dư là gì? Nguồn gốc, bản chất và ý nghĩa của giá trị thặng dư? Giá trị nguyên vẹn của học thuyết giá trị thặng dư?
Mục lục
Thặng dư là thuật ngữ trong lĩnh vực kinh tế mà ai cũng đã từng nghe qua nhưng có thể chưa chắc đã hiểu rõ về bản chất của nó. Hãy cùng Trang Tài Liệu khám phá khái niệm, ý nghĩa và các ứng dụng thực tế của giá trị thặng dư trong cuộc sống qua nội dung sau.
Giá trị thặng dư là gì?
Theo triết học Mác-Lênin, C.Mác đã đưa ra định nghĩa về giá trị thặng dư là giá trị do người lao động làm ra dưới cương vị là người làm thuê, và đây là phần giá trị dôi ra, vượt quá giá trị sức lao động của họ. Giá trị vượt này của người lao động bị nhà tư bản chiếm đoạt và giúp nhà tư bản có thêm thu nhập.
Nói cách khác dễ hiểu, mỗi nhân công lao động được trả công để hoàn thành một khối lượng và sản lượng công việc nhất định; nhưng người lao động hoàn thành công việc vượt quá sản lượng yêu cầu. Phần giá trị vượt quá đó được gọi là giá trị thặng dư.
Nhà tư bản đầu tư chi phí vào các hoạt động sản xuất như mua tư liệu sản xuất, và mua sức lao động. Số tiền mà họ thu được dôi ra so với số tiền mà họ đã chi trả trong quá trình sản xuất chính là giá trị thặng dư.
Giá trị thặng dư được coi là huyết mạch giúp chế độ tư bản phát triển. Nó cũng góp phần hình thành nên bản chất bóc lột của giai cấp này. Từ việc chiếm đoạt giá trị thặng dư, chế độ tư bản bóc lột sức lao động của người lao động.
Các nhà tư bản, các ông chủ đã áp dụng rất nhiều cách để chiếm đoạt được nhiều giá trị thặng dư. Giá trị thặng dư có thể được tạo ra bằng cách kéo dài thời gian lao động, kéo dài thời gian làm việc, vượt quá thời gian quy định.
Người lao động cũng có thể tạo ra giá trị thặng dư bằng cách tăng cường độ lao động. Lúc này thời gian lao động không đổi nhưng cường độ lao động tăng lên dẫn đến việc hiệu suất, năng suất làm việc cũng tăng lên.
Giá trị thặng dư cũng có thể được tạo ra bằng cách rút ngắn thời gian làm việc, tăng năng suất lao động.
Ứng dụng những tiến bộ của khoa học, kỹ thuật vào quá trình sản xuất cũng là một trong những phương pháp tạo ra giá trị thặng dư. Việc áp dụng công nghệ vào sản xuất sẽ rút ngắn được thời gian lao động, tăng cường độ và năng suất lao động, từ đó dẫn đến việc nâng cao hiệu suất về sản lượng lao động và tạo nâng cao giá trị thặng dư.
Ví dụ dễ hiểu về giá trị thặng dư như sau: Một nhân công của nhà máy may sản xuất áo sơ mi, mỗi ngày được quy định làm việc trong 8 tiếng, với sản lượng yêu cầu làm ra 5 chiếc áo mỗi ngày.
Qua thời gian, tay nghề nhân công ngày càng điêu luyện, trong 8 tiếng đó cô ấy có thể hoàn thành được 8 chiếc áo sơ mi. Như vậy, sản lượng sản xuất dôi ra so với định mức là 3 chiếc áo sơ mi. Ba chiếc áo này chính là giá trị thặng dư.
Ví dụ:
Nguồn gốc của giá trị thặng dư
Nguồn gốc của giá trị thặng dư đến từ lao động sống. Những hoạt động trực tiếp của người lao động bao gồm cả hoạt động về thể lực và trí lực để tạo ra sản phẩm, dịch vụ trong quá trình lao động.
Người lao động sử dụng sức lực của mình chuyển những giá trị của tư liệu sản xuất vào giá trị sản phẩm. Trong quá trình sản xuất, người lao động tạo ra những giá trị, của cải tăng thêm, gọi là giá trị mới. Lao động sống là nguồn duy nhất tạo ra ra giá trị mới, và nhờ nó mà các giá trị tư liệu sản xuất được bảo tồn và chuyển vào hàng hóa.
Hiệu quả của lao động sống càng cao, thì giá trị thặng dư càng được tạo ra nhiều. Bên cạnh việc là nguồn gốc của giá trị thặng dư, lao động sống cũng đảm bảo điều kiện cho tái sản xuất xã hội, mở rộng và tăng nhu cầu xã hội.
Bản chất của giá trị thặng dư
Từ việc hiểu rõ giá trị thặng dư là gì, chúng ta có thể thấy giá trị thặng dư là mục đích sản xuất của tư bản chủ nghĩa. Giá trị thặng dư có ba đặc trưng về bản chất như sau:
Giá trị thặng dư là kết quả của sức lao động miệt mài
Các nhà tư bản làm giàu, thu lợi nhuận dựa trên cơ sở thuê mướn người lao động. Lúc này, người lao động làm thuê để bán sức lao động của mình đổi lấy tiền công.
Dưới sự kiểm soát chặt chẽ của các nhà tư bản, các ông chủ, người lao động cũng được xem như những yếu tố sản xuất khác. Và nhà sử dụng lao động luôn tìm cách sử dụng sao cho tạo ra nhiều sản phẩm nhất có thể. Người lao động có thể phải làm thêm giờ, họ có thể phải làm tăng lên về sản lượng hơn so với mức quy định,…
Toàn bộ các sản phẩm tạo ra thuộc sở hữu của nhà tư bản
Các hàng hóa, sản phẩm được tạo ra trong quá trình người lao động sản xuất, thuộc toàn quyền sở hữu của nhà tư bản, của các ông chủ; chứ không phải của người công nhân. Người công nhân trước khi tham gia vào quá trình sản xuất, họ được nhà tư bản giao ước, và trả công đúng bằng giá trị hàng hóa sức lao động.
Vì vậy tất cả hàng hóa mà người lao động tạo đều là của nhà tư bản, và phần giá trị thặng dư sẽ bị nhà tư bản chiếm đoạt.
Trong xã hội tư bản trước đây, người lao động bị áp bức, và được trả tiền công rất rẻ mạt; trong khi đó nhà tư bản thì không ngừng giàu có do giá trị thặng dư. Điều này hình thành nên quan hệ bóc lột, và sự bất công sâu sắc trong xã hội.
Nhà tư bản bóc lột sức lao động của người lao động cho bản thân họ. Sự bóc lột càng diễn ra nhiều, thì giá trị thặng dư được tạo ra càng tăng cao. Tạo nên sự phân hóa giữa giàu và nghèo vô cùng sâu sắc trong xã hội. Người giàu ngày càng giàu lên vì họ chiếm đoạt được nhiều giá trị thặng dư , còn người nghèo vẫn hoàn nghèo vì công sức lao động của họ quá đỗi rẻ mạt.
Đặc trưng của giá trị thặng dư
Để xác định bản chât cửa giá trị thặng dư, C.Mác đã chia tư bản ra thành hai bộ phận chính gồm tư bản khả biến và tư bản bất biến, chi tiết như sau:
- Tư bản bất biến chính là một bộ phận tư bản tồn tại, xuất hiện dưới hình thá, dáng vẻ của tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo đảm giữ nguyên và chuyển đổi vào sản phẩm, tức là giá trị không biến đổi về lượng sau quá trình sản xuất. Tư bản bất biến được ký hiệu bằng “c”.
- Tư bản khả biến là một bộ phận tư bản biểu hiện, bộc lộ hình thức là giá trị của sức lao động sau quá trình sản xuất, có xuất hiện lượng tăng thêm nhất định. Tư bản khả biến được ký hiệu bằng “v”.
Từ đó, kết luận rút ra là giá trị hàng hóa sẽ bằng tổng cộng giá trị tư bản bất biến và giá trị tư bản khả biến. Như vậy, bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản hiện lên rất rõ ràng.
Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu phương thức sản xuất trong chủ nghĩa tuwbanr, học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác đã vạch trần, chỉ ra xu hướng bóc lột của nhiều nhà tư bản cũng như mâu thuẫn kinh tế giữa các giai cấp vô sản và tư sản.
Mang ý nghĩa thực tiễn, học thuyết giá trị thặng dư đặc biệt quan trọng với hành trình xây dựng, đổi mới và bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nếu tận dụng lý thuyế một cách đúng đắn, điều đó sẽ góp phần vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cũng như nâng cao đời sống xã hội ở nước ta.
Ý nghĩa của giá trị thặng dư
Giá trị thặng dư được đề cập và nghiên cứu trong học thuyết kinh tế của C.Mác đã phơi trần bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản trong những thời kỳ trước đây. Giúp khơi nguồn cho phong trào đấu tranh giữa giai cấp vô sản chống lại chủ nghĩa tư bản.
Giá trị thặng dư không chỉ giúp tồn tại xã hội tư bản chủ nghĩa, giá trị thặng dư còn có thể giúp kinh tế, xã hội phát triển và đổi mới của chủ nghĩa xã hội.
Giá trị thặng dư cấu thành động lực để giúp kinh tế tăng trưởng và phát triển. Từ đó, các nhà đầu tư, chủ doanh nghiệp sẽ đưa ra những kế hoạch, chiến lược sản xuất để có thể tạo ra nhiều giá trị thặng dư, giúp thu lại lợi nhuận và doanh thu nhiều hơn.
Bên cạnh đó vẫn đảm bảo về quyền lợi, và chế độ đãi ngộ tốt với công nhân, người lao động.
Giá trị thặng dư thúc đẩy doanh nghiệp áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Điều này giúp quá trình sản xuất được tối ưu, năng suất và hiệu suất được nâng cao, giúp sản xuất ra nhiều sản phẩm, hàng hóa và thu về được nhiều giá trị thặng dư.
Công thức tính giá trị thặng dư
Bên cạnh việc nắm rõ về giá trị thặng dư là gì, chúng ta cần hiểu và biết cách tính tỷ suất giá trị thặng dư. Tỷ suất giá trị thặng dư thể hiện mối quan hệ giữa giá trị thặng dư và chi phí ban đầu mua sức lao động cần thiết để tạo ra giá trị thặng dư.
Tỷ suất này thể hiện rõ trong một khoảng thời gian lao động nhất định, có thể là trong một ngày lao động, phần thời gian lao động thặng dư của người lao động.
Công thức tính tỷ suất giá trị thặng dư được tính theo tỷ lệ phần trăm giữa thời gian lao động thặng dư và thời gian lao động tất yếu như sau:
m’ = t’/t *100%
Tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh sự khai thác sử dụng nhân công, và phản ánh quy mô giá trị thặng dư mà chủ sở hữu tư liệu có thể thu được.
Các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị thặng dư
Các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị thặng dư (surplus value) trong lĩnh vực kinh tế và xã hội có thể bao gồm:
- Sự khác biệt giữa giá trị lao động và giá trị sản phẩm: Giá trị thặng dư phát sinh khi giá trị sản phẩm vượt qua giá trị lao động mà công nhân đã đóng góp. Sự khác biệt này phụ thuộc vào mức độ hiệu suất lao động, công nghệ, và tỷ lệ cung cầu trên thị trường.
- Quan hệ sở hữu và sự kiểm soát sản xuất: Sự tách biệt giữa công nhân và các phương tiện sản xuất, cùng với quyền sở hữu và sự kiểm soát của các tầng lớp cầm quyền, tạo điều kiện cho việc khai thác giá trị thặng dư từ lao động của công nhân.
- Tỉ lệ lợi nhuận và đặc điểm của hệ thống kinh tế: Trong hệ thống kinh tế thị trường, tỷ lệ lợi nhuận cao hơn tỷ lệ tăng trưởng sản xuất là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến giá trị thặng dư. Điều này có thể liên quan đến sự tập trung vốn, sự cạnh tranh không đối địch, hay các yếu tố khác trong hệ thống kinh tế.
- Sự phân công lao động và cơ cấu xã hội: Sự phân công lao động trong xã hội có thể ảnh hưởng đến giá trị thặng dư. Các nhóm xã hội có vị trí ưu tiên và quyền lực cao hơn có thể tận dụng giá trị thặng dư từ những nhóm khác, góp phần vào sự bất bình đẳng xã hội.
- Các yếu tố pháp lý và chính trị: Các yếu tố pháp lý và chính trị, như chính sách thuế, luật lao động, quyền lực chính trị, có thể ảnh hưởng đến phạm vi và phương thức khai thác giá trị thặng dư trong một xã hội.
Tất cả những yếu tố trên đều tương với nhau và có thể ảnh hưởng đến mức độ và cách thức giá trị thặng dư được hình thành và phân phối trong một hệ thống kinh tế và xã hội.
Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
Có một số phương pháp sản xuất giá trị thặng dư (surplus value) trong lĩnh vực kinh tế và xã hội, trong đó những phương pháp chủ yếu bao gồm:
- Khai thác lao động: Phương pháp này liên quan đến việc tận dụng lao động của công nhân bằng cách trả lương thấp hơn so với giá trị sản phẩm mà họ tạo ra. Sự khác biệt giữa giá trị lao động và mức lương nhận được tạo ra giá trị thặng dư.
- Sở hữu phương tiện sản xuất: Việc sở hữu và kiểm soát các phương tiện sản xuất (như máy móc, công cụ, nhà xưởng) cho phép chủ sở hữu tận dụng giá trị thặng dư thông qua việc khai thác lao động của công nhân và sử dụng các phương tiện này để tạo ra giá trị sản phẩm.
- Quyền sở hữu trí tuệ: Việc sở hữu và kiểm soát các quyền sở hữu trí tuệ, như bằng sáng chế, thương hiệu, bản quyền, cho phép chủ sở hữu tận dụng giá trị thặng dư từ việc bán hoặc cho thuê quyền sử dụng trí tuệ của mình.
- Đầu tư tài chính: Các hoạt động đầu tư tài chính, bao gồm mua bán chứng khoán, cổ phiếu, tín dụng, đất đai, cũng có thể tạo ra giá trị thặng dư thông qua việc tận dụng sự khác biệt giữa giá trị tài sản và lợi nhuận thu được.
- Sản xuất hàng hoá và thương mại: Việc sản xuất và tiêu thụ hàng hoá trong một hệ thống thương mại cũng tạo ra giá trị thặng dư thông qua việc bán hàng với mức giá cao hơn chi phí sản xuất.
Tất cả những phương pháp này đều tạo ra giá trị thặng dư bằng cách tận dụng và khai thác các nguồn lực và quyền sở hữu khác nhau trong quá trình sản xuất và giao dịch.
Giá trị thặng dư là khái niệm kinh tế mô tả sự khác biệt giữa giá trị sản phẩm cuối cùng mà lao động tạo ra và mức lương mà công nhân nhận được. Đây là phần lợi nhuận hay giá trị còn lại sau khi đã trả các chi phí cần thiết cho quá trình sản xuất. Giá trị thặng dư được tạo ra thông qua việc tận dụng và khai thác nguồn lao động và các nguồn tài nguyên khác. Trong quá trình sản xuất, giá trị thặng dư được chủ sở hữu vốn và các nhà đầu tư sở hữu và tận dụng, trong khi công nhân chỉ nhận được mức lương tương đương với giá trị lao động mà họ cung cấp. Giá trị thặng dư đóng vai trò quan trọng trong hệ thống kinh tế và xã hội, góp phần vào tăng trưởng kinh tế, tạo ra lợi nhuận và sự phân chia tài nguyên trong xã hội.