Hướng dẫn soạn Hoàng Lê nhất thống chí đầy đủ nhất
Bài soạn Hoàng Lê nhất thống chí đã khắc họa chân thực hình ảnh người anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ, cũng như hình ảnh thảm bại của quân Thanh và vua tôi Lê Chiêu Thống. Tác phẩm được giới thiệu trong chương tình Ngữ Văn lớp 9.
Mục lục
Hôm nay, Trangtailieu.com sẽ giới thiệu tài liệu Soạn văn 9: Hoàng Lê nhất thống chí. Mời các bạn học sinh tham khảo nội dung chi tiết dưới đây. Và nhiều tài liệu học tập khác giúp các em hoàn thành tốt môn Ngữ văn lớp 9.
Soạn văn Hoàng Lê nhất thống chí chi tiết – Mẫu 1
I. Tác giả
– Ngô Gia Văn Phái là một nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì, ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội).
– Trong đó có hai tác giả chính là Ngô Thì Chí (1753 – 1788) làm quan thời Lê Chiêu Thống và Ngô Thì Du (1772 – 1840) làm quan dưới triều nhà Nguyễn.
II. Tác phẩm
1. Hoàn cảnh sáng tác
– Tác phẩm viết bằng chữ Hán ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê.
– Không chỉ dừng lại ở sự thống nhất vương triều nhà Lê mà còn biết tiếp, tái hiện một giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam vào khoảng ba mươi năm cuối thế kỉ XVIII và mấy năm đầu thế kỉ XX.
2. Thể loại
– Chí là một lối văn ghi chép sự vật, sự việc.
– Cũng có thể xem Hoàng Lê nhất thống chí là một cuốn tiểu thuyết lịch sử viết theo lối chương hồi.
– Cuốn tiểu thuyết này có tất cả 17 hồi, đoạn trích trong SGK là trích ở hồi thứ 14, viết về sự kiện Quang Trung đại phá Quân Thanh.
3. Bố cục
Gồm 3 phần:
- Phần 1: Từ đầu đến “vào ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân (1788)”. Quân Thanh chiếm thành Thăng Long, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế đem quân đi đánh quân Thanh.
- Phần 2: Tiếp theo đến “vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Lăng, rồi kéo vào thành”. Cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng vang dội của Quang Trung.
- Phần 3: Còn lại. Sự đại bại của quân Thanh và sự thảm hại của vua tôi Lê. Chiêu Thống.
4. Tóm tắt
Lo sợ quân Tây Sơn kéo quân ra Bắc để bắt Vũ Văn Nhậm, vua Lê Chiêu Thống cầu cứu quân Thanh. Triều đình nhà Thanh nhân cơ hội đó kéo quân sang với mong muốn thôn tính nước ta. Được tin, Quang Trung bàn bạc với tướng sĩ, chuẩn bị kế sách tiến đánh quân Thanh.
Quang Trung mở tiệc khao quân, chia quân thành 5 đạo, thân hành cầm quân ra trận, tối 30 tết lên đường, hẹn ngày mồng 7 tết sẽ mở tiệc ăn mừng thắng lợi ở kinh thành Thăng Long. Quân Tây Sơn ra đến sông Gián, quân giặc trấn thủ ở đó tan vỡ, toán quân Thanh đi do thám bị bắt sống hết. Nửa đêm mùng 3 tết Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung tới Hà Hồi, Thượng Phúc, lặng lẽ vây kín thành. Quân giặc bấy giờ mới biết, rụng rời sợ hãi xin hàng.
Tờ mờ sáng mùng 5 Tết, nghĩa quân tiến đánh đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh không chống cự nổi, bỏ chạy toán loạn. Tướng giặc là Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự vẫn. Giữa trưa hôm ấy, nghĩa quân đã tiến đánh thành Thăng Long. Tổng đốc của giặc là Tôn Sĩ Nghị nghe tin cấp báo liền tìm cách trốn về nước. Vua Lê đang ở trong điện, nghe tin vội vã cùng tùy tùng đưa Thái Hậu ra ngoài thì gặp Tôn Sĩ Nghị cũng đang chạy trốn trong tình cảnh thê thảm. Nghĩa quân Tây Sơn đại thắng trước quân Thanh.
III. Đọc – hiểu văn bản
1. Hình ảnh người anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ
– Con người hành động mạnh mẽ, quyết liệt:
- Chỉ trong vòng một tháng khi quân Thanh chiếm kinh thành Thăng Long đã cho chuẩn bị mọi mặt cho cuộc tiến quân ra Bắc.
- Tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế và đổi niên hiệu là Quang Trung.
- Sau khi lên ngôi hoàng đế, ngay lập tức tự mình đốc suất đại bình, cả thủy lẫn bộ cùng tiến quân ra Bắc.
- Cho tuyển mộ quân lính ở Nghệ An, mở cuộc duyệt binh lớn và tổ chức lại hàng ngũ đội quân.
- Đích thân cưỡi voi ra doanh yên ủi quân lính…
– Là người có trí tuệ sáng suốt, có tầm nhìn xa trông rộng:
- Nhận định được tình hình của ta và địch, đưa ra những quyết định quan trọng.
- Sáng suốt và nhạy bén trong việc xét đoán và dùng người. Ông biết khen chê đúng người đúng việc.
- Bĩnh tĩnh, quyết đoán: “Khi nghe tin quân Thanh đã vào Thăng Long, ông không hề lo lắng”. “Ở Tam Điệp, Quang Trung phỏng đoán chính xác tình hình và đánh giá đúng chính sách của Ngô Thì Nhậm”
– Có ý chí kiên cường, biết trọng nhân tài và tài dùng binh như thần:
- Trước khi xuất quân, tính toán mọi sách lược và tin chắc vào thắng lợi chỉ trong vòng mười ngày, hẹn với quân sĩ ngày mồng 7 năm mới thì vào Thăng Long mời tiệc ăn mừng.
- “Ở Tam Điệp, Quang Trung phỏng đoán chính xác tình hình và đánh giá đúng sách lược của Ngô Thì Nhậm”.
- Trong trận chiến: Quang Trung liên tiếp điều binh, khiển tướng và sử dụng những sách lược đã chuẩn bị trước để đánh bại quân Thanh.
=> Như vậy, hình ảnh Quang Trung hiện lên trong Hoàng Lê nhất thống chí là một vị anh hùng dũng cảm, mưu lược cũng như biết thu phục lòng người và trở thành linh hồn của trận chiến.
2. Hình ảnh của bọn cướp nước, bán nước
– Hình ảnh của Tôn Sĩ Nghị và quân Thanh:
- Một tên tướng giặc kiêu căng, tự mãn và khinh địch.
- Bất tài, vô dụng và không có mưu lược, tầm nhìn.
- Khi biết tin quân Tây Sơn sắp tiến đến: “ Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo, dẫn bọn lính kị mã của mình chuồn trước…”
- Quân Thanh: đều hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu bắc sông, xô đẩy nhau đến nỗi rơi xuống sông mà chết.
=> Tình cảnh thất bại đến thảm hại của kẻ thù xâm lược.
– Hình ảnh vua Lê Chiêu Thống và bầy tôi:
- Chịu chung số phận với bọn cướp nước, thậm chí còn ê chề nhục nhã hơn.
- “Vua Lê ở trong điện nghe tin có biến vội vã cùng bọn Lê Quýnh, Trịnh Hiến đưa thái hậu ra ngoài…”
- Đặc biệt là cuộc gặp gỡ của vua Lê và chủ tướng quân Thanh – Tôn Sĩ Nghị: “cùng nhìn nhau than thờ, oán giận chảy nước mắt’.
=> Tình cảnh khốn cùng của kẻ bán nước.
Soạn văn Hoàng Lê nhất thống chí ngắn gọn – Mẫu 2
I. Trả lời câu hỏi
Câu 1. Tìm đại ý và bố cục đoạn trích.
– Đại ý: Quang Trung tiến quân ra Bắc đại phá quân Thanh, vua Lê Chiêu Thống bán nước phải bỏ chạy theo kẻ thù.
– Bố cục:
Gồm 3 phần:
- Phần 1: Từ đầu đến “vào ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân (1788)”. Quân Thanh chiếm thành Thăng Long, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế đem quân đi đánh quân Thanh.
- Phần 2: Tiếp theo đến “vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Lăng, rồi kéo vào thành”. Cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng vang dội của Quang Trung.
- Phần 3: Còn lại. Sự đại bại của quân Thanh và sự thảm hại của vua tôi Lê.
Câu 2. Qua đoạn trích tác phẩm, em cảm nhận hình ảnh người anh hùng dân tộc Quang Trung – Nguyễn Huệ như thế nào? Theo em, nguồn cảm hứng nào đã chi phối ngòi bút tác giả khi tạo dựng hình ảnh người anh hùng dân tộc này?
* Hình ảnh người anh hùng dân tộc Quang Trung – Nguyễn Huệ hiện lên:
– Con người hành động mạnh mẽ, quyết liệt:
- Chỉ trong vòng một tháng khi quân Thanh chiếm kinh thành Thăng Long đã cho chuẩn bị mọi mặt cho cuộc tiến quân ra Bắc.
- Tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế và đổi niên hiệu là Quang Trung.
- Sau khi lên ngôi hoàng đế, ngay lập tức tự mình đốc suất đại bình, cả thủy lẫn bộ cùng tiến quân ra Bắc.
- Cho tuyển mộ quân lính ở Nghệ An, mở cuộc duyệt binh lớn và tổ chức lại hàng ngũ đội quân.
- Đích thân cưỡi voi ra doanh yên ủi quân lính…
– Là người có trí tuệ sáng suốt, có tầm nhìn xa trông rộng:
- Nhận định được tình hình của ta và địch, đưa ra những quyết định quan trọng.
- Sáng suốt và nhạy bén trong việc xét đoán và dùng người. Ông biết khen chê đúng người đúng việc.
- Bĩnh tĩnh, quyết đoán: “Khi nghe tin quân Thanh đã vào Thăng Long, ông không hề lo lắng”. “Ở Tam Điệp, Quang Trung phỏng đoán chính xác tình hình và đánh giá đúng chính sách của Ngô Thì Nhậm”
– Có ý chí kiên cường, biết trọng nhân tài và tài dùng binh như thần:
- Trước khi xuất quân, tính toán mọi sách lược và tin chắc vào thắng lợi chỉ trong vòng mười ngày, hẹn với quân sĩ ngày mồng 7 năm mới thì vào Thăng Long mời tiệc ăn mừng.
- “Ở Tam Điệp, Quang Trung phỏng đoán chính xác tình hình và đánh giá đúng sách lược của Ngô Thì Nhậm”.
- Trong trận chiến: Quang Trung liên tiếp điều binh, khiển tướng và sử dụng những sách lược đã chuẩn bị trước để đánh bại quân Thanh.
=> Như vậy, hình ảnh Quang Trung hiện lên trong Hoàng Lê nhất thống chí là một vị anh hùng dũng cảm, mưu lược cũng như biết thu phục lòng người và trở thành linh hồn của trận chiến.
* Nguồn cảm hứng chi phối tác giả: Tinh thần yêu nước cũng như sự tôn thờ, ngưỡng mộ của người viết dành cho vua Quang Trung.
Câu 3. Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua Lê Chiêu Thống phản nước, hại dân đã được miêu tả như thế nào? Ngòi bút tác giả khi miêu tả hai cuộc tháo chạy của tướng quân nhà Thanh và vua Lê Chiêu Thống có gì khác biệt? Hãy giải thích vì sao có sự khác biệt đó?
* Sự thảm bại của:
– Hình ảnh của Tôn Sĩ Nghị và quân Thanh:
- Một tên tướng giặc kiêu căng, tự mãn và khinh địch.
- Bất tài, vô dụng và không có mưu lược, tầm nhìn.
- Khi biết tin quân Tây Sơn sắp tiến đến: “ Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo, dẫn bọn lính kị mã của mình chuồn trước…”
- Quân Thanh: đều hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu bắc sông, xô đẩy nhau đến nỗi rơi xuống sông mà chết.
=> Tình cảnh thất bại đến thảm hại của kẻ thù xâm lược.
– Hình ảnh vua Lê Chiêu Thống và bầy tôi:
- Chịu chung số phận với bọn cướp nước, thậm chí còn ê chề nhục nhã hơn.
- “Vua Lê ở trong điện nghe tin có biến vội vã cùng bọn Lê Quýnh, Trịnh Hiến đưa thái hậu ra ngoài…”
- Đặc biệt là cuộc gặp gỡ của vua Lê và chủ tướng quân Thanh – Tôn Sĩ Nghị: “cùng nhìn nhau than thờ, oán giận chảy nước mắt’.
=> Tình cảnh khốn cùng của kẻ bán nước.
* Sự khác biệt:
– Cảnh tháo chạy của quân Thanh: thảm hại, ê chề với cái nhìn hả hê, thỏa mãn. Âm hưởng nhanh, dồn dập nhằm gợi tả chiến thắng vang dội của ta trước kẻ địch.
– Cảnh tháo chạy của vua tôi Lê Chiêu Thống: miêu tả dài hơn, âm hưởng chậm rãi, nhẹ nhàng hơn nhằm thể hiện sự chua xót, ngậm ngùi.
=> Sự khác biệt do cái nhìn chủ quan của người viết: Vẫn còn có lòng tôn kính với một vương triều mình từng phụng thờ.
Câu 4. Nêu nhận xét về nghệ thuật trần thuật của đoạn trích này.
Nghệ thuật trần thuật đặc sắc:
– Không ghi chép sự kiện một cách gấp gáp qua từng mốc thời gian (văn bản lịch sử) mà miêu tả cụ thể hành động, lời nói.
– Miêu tả được thế đối lập giữa hai đội quân và trung thành với lịch sử dân tộc.
=> Văn bản đã tái hiện chân thực một sự kiện lịch sử.
II. Luyện tập
Dựa vào tác phẩm, hãy viết đoạn văn ngắn miêu tả lại chiến công thần tốc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung từ tối 30 đến ngày mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789).
Gợi ý
Chỉ trong vỏn vẹn mười ngày từ tối 30 đến mùng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789), nghĩa quân của Quang Trung đã chiến đấu và chiến thắng hơn hai mươi vạn quân Thanh. Đầu tiên, nghĩa quân tấn công nghĩa binh trấn thủ ở sông Gián, bắt sống không để sót một tên, ngăn cản chúng báo tin cho quân đội ở hai đồn Hà Hồi và Ngọc Hồi. Đến nửa đêm ngày mùng 3, vua Quang Trung dẫn binh lính tiến đánh và giành được Hà Hồi, tịch thu hết lương thực và vũ khí của kẻ thù. Đến ngày mùng 5 thì quân ta giành được đồn Ngọc Hồi. Chủ tướng giặc là Tôn Sĩ Nghị trước đó nghe tin cấp báo đã chạy trốn. Vua Lê Chiêu Thống ở trong cung nghe tin cũng tìm cách thoát chạy trong tình cảnh hết sức thảm hại. Nghĩa quân của ta đã dẹp tan quân Thanh, giành lại được kinh thành Thăng Long.
Soạn bài Hoàng Lê nhất thống chí – Mẫu 3
Nội dung tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí
Tôn Sĩ Nghị dẫn 20 vạn quân Thanh vào Thăng Long mà không mất một hòn tên mũi đạn nào nên rất kiêu căng. Tôn Sĩ Nghị hứa với Lê Chiêu Thống rằng sẽ diệt sạch đạo quân Tây Sơn. Nhưng Lê Chiêu Thống lại rất lo sợ trước đạo quân ấy, bèn cầu cứu nhà Thanh. Nghe tin đó, Nguyễn Huệ vô cùng tức giận, lập tức lên ngôi vua, lấy hiệu là Quang Trung sau đó đưa quân ra Nghệ An mở cuộc duyệt binh lớn rồi tiến quân ra Bắc. Ngày 30 tháng Chạp, nghĩa quân hội tại Tam Điệp. Rạng sáng mùng 3 Tết chiếm được đồn Hà Hồi, tiếp tục tiến vào Ngọc Hồi. Vua Quang Trung nhìn ra nhân tài là Ngô Thì Nhậm, bèn giao cho nhiệm vụ hòa hiếu giữa hai nước. Tôn Sĩ Nghị cùng vua tôi nhà Lê vẫn mải mê ăn Tết mà không biết rằng nghĩa quân Tây Sơn đã đánh vào thành Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị khi ấy sợ mất mật, vua Lê cùng thái hậu sợ hãi bỏ trốn khỏi kinh thành.
Đôi nét về tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí
1. Tác giả
– Ngô gia văn phái là một nhóm các tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả – Thanh Oai (Hà Tây). Trong đó có hai tác giả tiêu biểu là Ngô Thì Chí (1753 – 1788) và Ngô Thì Du (1772 – 1840).
– Cuối thế kỉ XVIII làm quan dưới triều Lê và triều Nguyễn.
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác
“Hoàng Lê nhất thống chí” là một tác phẩm viết bằng chữ Hán ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê. Tác phẩm không chỉ dừng lại ở sự thống nhất của vương triều nhà Lê mà còn được viết tiếp, tái hiện một giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam vào 30 năm cuối thế kỉ 18 và mấy năm đầu thế kỉ 19. Cuốn tiểu thuyết bao gồm 17 hồi, đoạn trích trong SGK là hồi thứ 14 của cuốn tiểu thuyết này.
b. Bố cục
3 đoạn:
– Đoạn 1: (Từ đầu đến “hôm ấy nhằm vào ngày 25 tháng chạp): Được tin báo quân Thanh chiếm Thăng Long, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế thân chinh cầm quân dẹp giặc.
– Đoạn 2: (“Vua Quang Trung tự mình dốc suất đại binh… vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long rồi kéo vào thành”): Cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung.
– Đoạn 3: (Từ “Lại nói Tôn Sĩ Nghị và vua Lê… cũng lấy làm xấu hổ”): Sự đại bại của tướng nhà Thanh và tình trạng thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống.
c. Ý nghĩa nhan đề
– Chí: thể văn vừa có tính chất văn học, vừa có tính chất lịch sử.
– “Hoàng Lê nhất thống chí” ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê.
d. Giá trị nội dung
Với quan điểm lịch sử đúng đắn và niềm tự hào dân tộc, các tác giả đã tái hiện chân thực hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh, sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống.
e. Giá trị nghệ thuật
Tác phẩm nổi bật là một tiểu thuyết chương hồi viết bằng chữ Hán với cách kể chuyện nhanh gọn, chọn lọc sự kiện, khắc họa nhân vật chủ yếu qua hành động, lời nói, kể chuyện xen miêu tả sinh động và cụ thể, gây ấn tượng mạnh.
Sơ đồ tư duy Hoàng Lê nhất thống chí
Đọc hiểu văn bản Hoàng Lê nhất thống chí
1. Hình tượng người anh hùng áo vải Quang Trung
a. Quang Trung – một con người hành động mạnh mẽ quyết đoán
– Nghe tin giặc đã đánh chiếm đến tận Thăng Long → “định thân chinh cầm quân đi ngay”.
– Trong vòng hơn một tháng → làm được bao nhiêu việc lớn: “tế cáo trời đất”, lên ngôi hoàng đế, dốc xuất đại binh ra Bắc…
b. Quang Trung – một con người có trí tuệ sáng suốt và nhạy bén
* Sáng suốt trong việc lên ngôi vua
– Khi mấy chục vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị hùng hổ kéo vào nước ta, thế giặc đang mạnh, tình thế khẩn cấp, vận mệnh đất nước “ngàn cân treo sợi tóc” → quyết định lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung.
– Việc lên ngôi → thống nhất nội bộ, hội tụ anh tài và quan trọng hơn là để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người, được dân ủng hộ.
* Sáng suốt trong việc nhận định tình hình địch và ta
– Lời dụ tướng sĩ trước lúc lên đường ở Nghệ An → chỉ rõ: “đất nào sao ấy” người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác”; tội ác của giặc: “Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại dân ta, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi”.
– Khích lệ tướng sĩ dưới quyền → đưa ra những tấm gương chiến đấu dũng cảm chống giặc ngoại xâm từ ngàn xưa như: Trưng nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành…
– Dự kiến được việc Lê Chiêu Thống về nước có thể làm cho một số người Phù Lê “thay lòng đổi dạ” → có lời dụ với quân lính vừa chí tình, vừa nghiêm khắc: “các người đều là những người có lương tri, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực để dựng lên công lớn. Chớ có quen thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai”.
* Sáng suốt trong việc xét đoán bê bối
– Qua lời nói với Sở và Lân → hiểu việc rút quân của hai vị tướng, ngợi khen Sở và Lân.
– Đối với Ngô Thì Nhậm → đánh giá rất cao và sử dụng như một vị quân sĩ “đa mưu túc trí”.
c. Quang Trung – người có tầm nhìn xa trông rộng
– Mới khởi binh đánh giặc, chưa giành được tấc đất nào → đã nói chắc như đinh đóng cột “phương lược tiến đánh đã có tính sẵn”.
– Đang ngồi trên lưng ngựa → đã nói với Nhậm về quyết sách ngoại giao và kế hoạch hoà bình. Đối với địch → thắng việc binh đao không thể dứt ngay được.
d. Quang Trung – vị tướng có tài thao lược hơn người
– Cuộc hành quân thần tốc do Quang Trung chỉ huy → làm chúng ta kinh ngạc.
– Hoạch định kế hoạch: từ 25 tháng chạp đến mùng 7 tháng giêng sẽ vào ăn tết ở Thăng Long → thực tế đã vượt mức 2 ngày.
– Hành quân xa, liên tục → đội quân vẫn chỉnh tề do tài tổ chức của người cầm quân.
e. Quang Trung – lẫm liệt trong chiến trận
– Thân chinh cầm quân → làm tổng chỉ huy chiến dịch.
– Dưới sự lãnh đạo tài tình của vua Quang Trung → nghĩa quân Tây Sơn thắng áp đảo kẻ thù.
– Khí thế đội quân → kẻ thù khiếp vía.
– Hình ảnh lẫm liệt: “khói tỏ mù trời, cách gang tấc không thấy gì” → nhà vua “cưỡi voi đi đốc thúc”.
=> Hình ảnh người anh hùng được khắc hoạ khá đậm nét với tính cách mạnh mẽ, trí tuệ sáng suốt, nhạy bén, tài dùng binh như thần; là người tổ chức và là linh hồn của chiến công vĩ đại.
2. Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống
– Tôn Sỹ Nghị kiêu căng, tự mãn, chủ quan:
+ Kéo quân vào Thăng Long dễ dàng “ngày đi đêm nghỉ” như “đi trên đất bằng” → cho là vô sự, không đề phòng gì, chỉ lảng vảng ở bên bờ sông, lấy thanh thế suông để doạ dẫm.
+ Được vua tôi Lê Chiêu Thống báo trước → không chút đề phòng suốt mấy ngày Tết “chỉ chăm chú vào việc yến tiệc vui mừng, không hề lo chi đến việc bất chắc”, cho quân lính mặc sức vui chơi.
+ Khi quân Tây Sơn đánh đến nơi → tướng thì sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp; quân “sợ hãi, xin ra hàng hoặc bỏ chạy toán loạn, giày xéo lên nhau mà chết…”. Cả đội binh → tháo chạy, mạnh “đêm ngày đi gấp, không dám nghỉ ngơi”.
– Lê Chiêu Thống và những bề tôi trung thành của ông ta → chịu đựng nỗi sỉ nhục của kẻ đi cầu cạnh, van xin, không còn tư cách bậc quân vương → phải chịu chung số phận bi thảm của kẻ vong quốc.
– Khi có biến → Lê Chiêu Thống cùng mấy bề tôi thân tín chạy bán sống bán chết, cướp cả thuyền dân để qua sông chạy trốn. Đuổi kịp Tôn Sĩ Nghị → nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt. Khi sang đến Trung Quốc → cạo đầu, tết tóc, ăn mặc giống người Mãn Thanh → gửi nắm xương tàn nơi đất khách quê người.
⇒ Số phận tất yếu cho một người đứng đầu đất nước nhưng lại bán nước hại dân.
Bài văn phân tích Hoàng Lê nhất thống chí
“Hoàng Lê nhất thống chí” của nhóm tác giả Ngô gia văn phái từ lâu đã được xem là cuốn sách lịch sử đặc biệt quan trọng, là cuốn tư liệu quí giá cho các nhà sử gia nước nhà. Tuy nhiên, vượt ra khuôn khổ giá trị của cuốn sách lịch sử thông thường, tác phẩm còn mang một giá trị văn chương hay, độc đáo, rất tiêu biểu cho thể loại tiểu thuyết lịch sử, viết theo lối chương hồi.
Toàn bộ tác phẩm gồm có mười bảy hồi. Đó là một chuỗi câu chuyện lịch sử dài, với biết bao những biến cố thăng trầm, đầy dữ dội, đau thương, đẫm máu và nước mắt của các triều đại phong kiến Việt Nam từ ba mươi năm cuối thế kỉ XVIII đến mấy năm đầu thế kỉ XIX; từ khi Trịnh Sâm lên ngôi chúa cho đến khi Gia Long chiếm Bắc Hà, lật đổ triều đại Tây Sơn, lập nên triều đại Gia Long – nhà Nguyễn. Trong tác phẩm, tiêu biểu có Hồi thứ mười bốn: “đánh Ngọc Hồi quân Thanh thua trận. Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài”, là một trong những phần hay nhất của tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí”.
Tác giả đã dựng lên bức chân dung về người anh hùng áo vải dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh và tái hiện sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh cùng số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống một cách chân thực, sinh động. Có thể nói, dưới ngòi bút của nhà văn, người đọc như đang sống lại những giờ phút đau thương của lịch sử dân tộc khi mà vào cuối năm Mậu Thân 1788, đầu năm Kỉ Dậu 1789, vua Lê Chiêu Thống đã rước 29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu, kéo sang xâm lược nước ta. Ngày 22 tháng 11, Tôn Sĩ Nghị chiếm được thành Thăng Long, tướng Ngô Văn Sở phải tạm thời rút lui về Tam Điệp để phòng thủ.
Đứng trước vận mệnh lịch sử Việt Nam “ngàn cân treo sợi tóc”, Nguyễn Huệ hiện lên như một vị cứu tinh chói lọi của dân tộc ta. Nhận được tin báo Nguyễn Huệ giận lắm, “định thân chinh cầm quân đi ngay”. Chỉ trong vòng hơn một tháng trời, Nguyễn Huệ đã làm được rất nhiều việc: Ngày 25 lên ngôi hoàng đế, “tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi”, rồi đốc thúc đại quân tiến ra Bắc; ngày 29 tới Nghệ An, nhà vua cho tuyển thêm quân sĩ và mở một cuộc duyệt binh lớn, thu nạp được hơn một vạn quân tinh nhuệ; sau đó đưa ra lời phủ dụ, vạch rõ âm mưu và sự tàn độc của quân xâm lược phong kiến phương Bắc, nêu cao truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm của dân tộc và đưa ra lời hiệu triệu kêu gọi các quân sĩ “đồng tâm hiệp lực, để dựng lên công lớn”.
Lời phủ dụ như sấm truyền bên tai, như một lời hịch mang âm hưởng vang vọng của sông núi, kích thích lòng yêu nước và truyền thống anh hùng của dân tộc. Chưa dừng lại ở đó, nhà vua còn hoạch định kế hoạch hành quân “lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mươi ngày có thể đánh đuổi được người Thanh” rồi chia quân sĩ ra làm năm đạo”.
Hôm đó là ngày 30 tháng chạp, vua cho tổ chức mở tiệc khao quân, hẹn đến ngày mồng bảy năm mới thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng… Qua đó, ta thấy vua Quang Trung – Nguyễn Huệ hiện lên là một con người có hành động mạnh mẽ, xông xáo, có trí tuệ sáng suốt trong nhận định tình hình địch ta và là người biết nhìn xa trông rộng, chưa thắng nhưng nhà vua đã nghĩ tới quyết sách ngoại giao, kế hoạch hòa bình trong mười năm tới.
Tác giả đã mượn lời người cung nhân cũ để làm nổi bật tính cách anh hùng phi thường của Nguyễn Huệ khi trận Ngọc Hồi chưa diễn ra: “Không biết rằng, Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn không một người nào dám nhìn thẳng vảo mặt hắn. Thấy hắn trở tay, đưa mắt là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sấm sét”. Lời nhận xét đó không phải là không có căn cứ. Điều này được thể hiện rất rõ, rất chân thực, cụ thể trong cuộc điều binh khiển tướng trực tiếp của nhà vua.
Trong chiến trận, vua Quang Trung hiện lên oai phong, lẫm liệt, có tài thao lược hơn người. Có thể nói dưới bàn tay chỉ huy của nhà vua, quân đi đến đâu, giặc bị tiêu diệt tới đó. Lúc đi đến sống Gián và sông Thanh Quyết, toán quân Thanh vừa trông thấy bóng nhà vua đã “tan vỡ chạy trước”; tới làng Hà Hồi, huyện Thượng Phúc vua lặng lẽ cho vây kín làng rồi dùng mưu bắc loa truyền gọi khiến quân Thanh “ai nấy đều rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực, khí giới đều bị quân Nam lấy hết”; sáng mùng 5 tết tiến sát đồn Ngọc Hồi, đề phòng trước mũi súng của giặc, vua Quang Trung đã sai quân lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm một, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, cứ mười người một bức, lưng giắt dao ngắn, theo sau là hai mươi người cầm binh khí dàn thành chữ “nhất” tiến thẳng vào đồn.
Vì thế, súng giặc bắn ra đều vô tác dụng. Nhân có gió bắc, quân Thanh dùng súng ống phun khói lửa ra, khói tỏa mù trời, hòng làm quân ta rối loạn, không ngờ bỗng trời trở gió nam ngược lại, thành ra quân Thanh tự hại mình. Trước tình thế nghìn năm có một ấy, nhà vua liền gấp rút sai đội khiêng ván vừa che, xông thẳng lên phía trước, gươm giáo chạm nhau thì vứt ván xuống đất cứ nấy dao ngắn thủ sẵn trong tay áo mà chém. Kết quả, quân Thanh “thây nằm đầy đống, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại”. Thừa thắng xông lên, vua Quang trung lẫm liệt, oai phong cưỡi voi tiến vào giải phóng thành Thăng Long vào trưa ngày mùng 5 tết Kỉ Dậu – trước kế hoạch hai ngày. Giặc bỏ chạy, vua cho phục binh tại đê Yên Duyên và Đại Áng, vây quân Thanh ở Quỳnh Dô, giặc chạy xuống đầm Mực, cuối cùng bị quân Tây Sơn ” lùa voi cho giày đạp, chết đến hàng vạn người”.
Nhà văn đã tả thật chi tiết, sinh động sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận nhục nhã, bi đát của bọn vua quan phản nước hại dân bằng một giọng điệu vừa ngậm ngùi xót xa, lại vừa mạnh mẽ, tự hào. Vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long, rồi kéo quân vào thành. Tôn Sĩ Nghị và vua Lê ở Thăng Long chỉ chăm chú vào ngày tết, yến tiệc vui mừng, không lo chi đến việc bất trắc.
Ngược lại, quan quân ta mạnh mẽ như hổ báo, thế như chẻ tre, như “tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên”. Vì bị đánh úp bất ngờ, không có chuẩn bị, Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, cứ nhằm hướng bắc mà chạy; Sầm Nghi Đống thì thắt cổ tự vẫn; quân sĩ nhà Thanh đều “hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều.
Lát sau cầu lại bị đứt, quân lính đều rơi xuống nước, đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa”. Còn số phận thảm hại của bọn vua tôi phản nước hại dân Lê Chiêu Thống cũng phải chịu cảnh nhục nhã của kẻ vong quốc. Lê Chiêu Thống cũng vội vã cùng kẻ thân tín “đưa thái hậu ra ngoài”, bỏ chạy, cướp cả thuyền dân để qua sống, may được người thổ hào giúp cho ăn và chỉ đường cho chạy trốn. Đuổi kịp Tôn Sĩ Nghị, vua tôi “cùng nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt”, sau này phải cạo đầu tết tóc như người Mãn Thanh…
Đến đây, chúng ta mới thấy hết được tác giả Ngô gia văn phái là những con người tôn trọng lịch sử, tôn trọng sự thật khách quan. Mặc dù, họ vốn dĩ là cựu thần nhà Lê, ăn bổng lộc triều Lê, không có thiện cảm với quân Tây Sơn, thậm chí xem Tây Sơn như là kẻ thù, nhưng họ vẫn viết về Quang Trung và những chiến công của đoàn quân áo vải một cách thật hả hê, mạnh mẽ, tự hào.
Điều đó có được là do ý thức dân tộc của những trí thức có lương tri, lương tâm. Họ đã thấy được những cái hạn chế, sự thối nát, hèn mạt của nhà Lê và dã tâm xâm lược độc ác, hống hách của quân Thanh nên họ không thể đứng đó mà ngoảnh mặt làm ngơ được. Qua đó, chúng ta cảm thấy thật tâm phục, khẩu phục trước ý thức, trách nhiệm và tình yêu đất nước dân tộc của nhóm tác giả Ngô gia văn phái.
Đoạn trích “Hồi thứ mười bốn” trong “Hoàng Lê nhất thống chí” là một đoạn trích hay, độc đáo, có nhiều thành công về mặt nghệ thuật: kể tả đan xen rất sinh động, cụ thể, gây được ấn tượng mạnh; giọng điệu biến đổi linh hoạt, phù hợp với từng đoạn văn, từng hoàn cảnh lịch sử. Cảnh tháo chạy của quân tướng nhà Thanh được miêu tả dưới cái nhìn hả hê, mãn nguyện của người thắng trận trước sự thất bại thảm hại của kẻ thù cướp nước: âm hưởng nhanh, dồn dập, gợi sự tán loạn, tan tác.
Cảnh bỏ chạy của vua tôi Lê Chiêu Thống được miêu tả dài hơn, âm hưởng chậm, toát lên vẻ chua xót, ngậm ngùi… Đặc biệt sự thành công nổi bật trong đoạn trích là nghệ thuật khắc họa hình tượng nhân vật với đầy đủ diện mạo tới bản chất: Tôn Sĩ Nghị (tướng nhà Thanh) thì kiêu căng, ngạo mạn, khi bị quân Tây Sơn đánh đến thì “sợ mất mật” hèn hạ dẫn quân bỏ chạy; vua Lê Chiêu Thống hiện lên là con người ích kỉ, vì lợi ích dòng họ mà trở thành kẻ phản động, đớn hèn, nhục nhã cướp cả thuyền dân mà bỏ chốn; Còn vua Quang Trung – nhân vật chính trong truyện lại hội tụ biết bao phẩm chất của một người anh hùng “văn võ song toàn”, đầu đội trời chân đạp đất… Tất cả đã hòa với nhau làm một, tạo nên sự thành công tuyệt vời của một tác phẩm tiểu thuyết lịch sử, viết theo lối chương hồi.
Khép lại đoạn trích “Hồi thứ mười bốn” người đọc thấy được những âm mưu tàn ác của quân xâm lược phương Bắc đối với dân tộc ta. Đồng thời, qua đoạn trích ta càng cảm thấy tự hào hơn về truyền thống yêu nước, anh hùng của dân tộc Việt Nam, thấm thía và biết ơn sâu sắc những con người anh hùng, trong đó có nhà vua, nhà quân sự tài ba Quang Trung – Nguyễn Huệ.
Mong rằng hướng dẫn soạn Hoàng Lê nhất thống chí của Trangtailieu.com sẽ là tư liệu hữu ích giúp các bạn hoàn thiện tốt bài văn của mình. Đừng quên theo dõi website của chúng tôi để cập nhật thêm nhiều tài liệu học tập hữu ích khác.