Ngoại lực là gì? Tác động của ngoại lực đến địa hình bề mặt trái đất
Nội lực và ngoại lực có những ý nghĩa và vai trò quan trọng trong đời sống con người cũng như toàn bộ sinh vật trên trái đất. Hiểu một cách đơn giản thì nội lực và ngoại lực là hai lực tác dụng lên trái đất, lên đời sống của các sinh vật trong đó. Vậy, ngoại lực là gì? Các nguồn năng lượng sinh ra ngoại lực là gì? Đây chắc hẳn là những câu hỏi mà rất nhiều người thắc mắc. Bài viết dưới đây chúng ta sẽ cùng nhau trả lời cho câu hỏi này.
Mục lục
Ngoại lực là gì?
Trước khi hiểu ngoại lực là gì, cần làm rõ: Lực là bất kỳ ảnh hưởng nào cũng sẽ làm cho một vật thể chịu sự thay đổi hoặc nó có thể sẽ làm ảnh hưởng đến chuyển động, hướng của vật thể hay cấu trúc hình học của vật thể đó.
Như vậy, ngoại lực chính là lực có nguồn gốc ở bên ngoài, trên bề mặt Trái Đất. Xu hướng tác động của ngoại lực đó là làm cho các dạng địa hình trên bề mặt Trái Đất sẽ bị biến đổi. Ngoại lực sẽ phá vỡ, san bằng địa hình do nội lực tạo nên, đồng thời thì ngoại lực cũng tạo ra những dạng địa hình mới.
Từ “Ngoại lực trong Tiếng Anh”
Trong Tiếng Anh ngoại lực được hiểu là: External forces.
Ngoại lực được sinh ra từ đâu?
Bức xạ mặt trời chứa năng lượng điện từ từ mặt trời và lan tỏa ra khắp không gian. Trái Đất nhận được một phần của bức xạ này và sử dụng nó để hỗ trợ nhiều quá trình và hoạt động.
Bức xạ mặt trời là nguồn năng lượng quan trọng cho việc duy trì sự sống và hoạt động sinh thái trên Trái Đất. Một số ứng dụng của năng lượng từ bức xạ mặt trời bao gồm:
- Quang hợp trong cây cối: Các cây cối sử dụng năng lượng mặt trời thông qua quang hợp để tạo ra thực phẩm và sinh tồn.
- Năng lượng mặt trời: Bức xạ mặt trời được sử dụng để tạo ra năng lượng điện, chẳng hạn như qua việc lắp đặt các tấm pin mặt trời.
- Điều hòa không khí và khí hậu: Năng lượng mặt trời có thể được sử dụng để làm mát các không gian sống và giảm thiểu sự tiêu tốn năng lượng trong việc làm lạnh.
- Điện nước nóng: Năng lượng mặt trời có thể được sử dụng để nấu nước nóng cho nhu cầu gia đình hoặc công nghiệp.
- Sưởi ấm bằng năng lượng mặt trời: Các hệ thống năng lượng mặt trời có thể cung cấp nhiệt cho việc sưởi ấm trong những khu vực có khí hậu lạnh.
Ngoài bức xạ mặt trời, các tác nhân ngoại lực khác như yếu tố khí hậu, các dòng chảy như nước, gió, sóng biển và tác động của sinh vật cũng đóng góp vào ngoại lực và tạo ra sự biến đổi và phát triển trên Trái Đất. Tất cả những tác động này cùng nhau góp phần duy trì sự cân bằng sinh thái và hoạt động của hệ sinh thái trên hành tinh chúng ta.
Tác động của ngoại lực lên trái đất
Ngoại lực tác động lên trái đất tạo ra các quá trình cụ thể, bao gồm
:Thứ nhất, quá trình phong hóa
– Quá trình phong hoá lí học: là quá trình phá huỷ các loại đá thành các khối vụn mà các khối vụn đó đều sẽ có kích thước to, nhỏ khác nhau, tuy nhiên điều này cũng sẽ không làm thay đổi màu sắc, các thành phần khoáng hoá của chúng.
Nguyên nhân dẫn đến quá trình phong hoá lí học đó là bởi vì có những sự thay đổi của nhiệt độ hay sự đóng băng của nước hoặc cũng có thể do chính những tác động trực tiếp của con người.
– Quá trình phong hoá hoá học: là quá trình làm phá huỷ đá và khoáng vật, bên cạnh đó cũng sẽ làm biến đổi thành phần và cả tính chất hoá học của các loại đá, khoáng vật đó.
Nguyên nhân gây ra quá trình phong hoá hoá học đó là bởi vì có các tác động của chất khí, nước và các khoáng chất hoà tan được trong nước… Quá trình phong hoá đá này thông thường thì sẽ được xảy ra nhiều nhất ở những khu vực khí hậu xích đạo, gió mùa ẩm và các dạng địa hình các-xtơ ở miền đá vôi.
– Quá trình phong hoá sinh học: là quá trình dưới tác động của sinh vật như vi khuẩn, nấm hay rễ cây và nhiều loại sinh vật khác, đá và khoáng vật bị phá huỷ. Lúc này, đá và khoáng vật sẽ bị phá huỷ cả về mặt cơ giới và hoá học. Nguyên nhân được cho là dẫn đến quá trình phong hoá sinh học là bởi vì sự phát triển, tăng trưởng của rễ cây và sự bài tiết các chất.
Thứ hai, quá trình bóc mòn là quá trình các tác nhân ngoại lực (cụ thể như các tác nhân là nước chảy, sóng biển, băng hà, gió,…) làm chuyển rời các sản phẩm phong hóa ra khỏi vị trí ban đầu của các sản phẩm phong hóa đó. Quá trình bóc mòn có nhiều hình thức khác nhau như:
– Xâm thực: là hình thức bóc mòn chủ yếu do nước chảy. Kết quả của xâm thực đó là thường sẽ tạo ra các khe rãnh, mương suối, thung lũng sông, suối… Xâm thực thường xảy ra ở vùng có lượng mưa cường độ cao, thuơng xuyên.
– Mài mòn: Do tác động của nước biển tạo dạng địa hình cụ thể như: vách biển, hàm ếch, bậc thềm sóng vỗ.
Thứ ba, quá trình thổi mòn là hình thức bóc mòn do gió thổi, kết quả: tạo ra các dạng địa hình thổi mòn cụ thể như nấm đá, cổng đá, đá rỗ tổ ong và nhiều loại địa hình khác.
Gió xói mòn thường thì sẽ xảy ra trong khu vực có ít hoặc trong khu vực không có thảm thực vật, thường thì là ở những nơi không có đủ lượng mưa để có thể hỗ trợ thực vật.
Gió xói mòn thường sẽ là kết quả của phong trào vật chất do gió. Gió xói mòn sẽ có hai tác dụng chính. Gió sẽ gây ra các hạt nhỏ được nâng lên và vận chuyển đến khu vực khác.
Thứ tư, quá trình vận chuyển là quá trình di chuyển vật liệu từ nơi này đến nơi khác. Khoảng cách vận chuyển phụ thuộc vào các yếu tố động năng quá trình ngoại lực, trọng lượng và kích thước vật liệu và đặc điểm tự nhiên của mặt đệm.
Quá trình vận chuyển diễn ra dưới hình thức:
– Vật liệu nhỏ, nhẹ được cuốn đi nhờ động năng của ngoại lực.
– Vật liệu lớn, nặng lăn trên mặt đất dốc do chịu thêm tác động của trọng lực.
Thứ năm, quá trình bồi tụ là quá trình tích tụ (tích luỹ) các vật liệu phá huỷ.
Quá trình bồi tụ thông thường đều sẽ diễn ra rất phức tạp, quá trình bồi tụ sẽ phụ thuộc vào động năng của các nhân tố ngoại lực. Khi động năng giảm dần thì các vật liệu cũng sẽ tích tụ dần trên đường di chuyển của chúng theo thứ tự kích thước và trọng lượng giảm. Nếu động năng giảm đột ngột thì tất cả các loại vật liệu cũng sẽ đều tích tụ và phân lớp theo trọng lượng. Kết quả của quá trình bồi tụ đó chính là đã tạo nên các dạng địa hình bồi tụ.